VKS giữ nguyên quan điểm buộc tội bầu Kiên
VKS bác bỏ toàn bộ quan điểm bào chữa của các luật sư và giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm.
Hôm qua 30/5, TAND TP Hà Nội tiếp tục ngày xét xử sơ thẩm Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm. Ngày thứ 10 của phiên xét xử sơ thẩm, đại diện VKS hồi đáp sau khi các luật sư và bị cáo bào chữa cho các tội danh bị truy tố.
Theo đó, đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội giữ quyền công tố tại tòa đã bác bỏ toàn bộ quan điểm bào chữa của các luật sư và giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm.
Đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội hồi đáp sau phiên tranh tụng của luật sư (Ảnh: Tiền Phong)
Về “hành vi trốn thuế”, Viện Kiểm sát Nhân dân cáo buộc, B&B ký hợp đồng ủy thác đầu tư tài chính với Ngân hàng ACB. Tổng khối lượng giao dịch trạng thái vàng mua và bán, sau khi trừ chi phí vốn, phí ủy thác, thu lãi được hơn 100 tỉ đồng. Bà Đặng Thị Ngọc Lan (vợ bị cáo Kiên) là người đại diện hợp pháp của B&B đã ký hợp đồng ủy thác với bà Nguyễn Thúy Hương (em gái Kiên). Ngày 25/12/2008, bà Đặng Thị Ngọc Lan và Nguyễn Thúy Hương ký hợp đồng ủy thác cho bị cáo Kiên để thực hiện tất cả các giao dịch vàng với ACB. Qua các giao dịch, B&B thu được lãi hơn 100 tỉ đồng và chuyển cho bà Nguyễn Thúy Hương theo hợp đồng là 99%.
Viện Kiểm sát thừa nhận, hợp đồng ủy thác này đúng pháp luật, nhưng theo Nghị quyết 32 thì đến hết tháng 6/2009 vẫn chưa có hướng dẫn thi hành. Công ty B&B không kê khai đã chuyển 68 tỉ đồng cho bà Nguyễn Thúy Hương và số tiền này được chuyển lại cho bị cáo Kiên. Việc làm này trái quy định điều 27 Nghị định 100 quy định chi tiết 1 số điều luật thuế thu nhập cá nhân và khấu trừ thuế. Trong năm 2009 và 2010, Công ty B&B đã kê khai thuế nhưng không kê khai số tiền kinh doanh vàng phát sinh từ các hợp đồng trên. Giám định viên Bộ tài chính đã kết luận, thuế thu nhập doanh nghiệp của Công ty B&B là 25 tỷ đồng.
Trước những lý lẽ và chứng cứ trên, Viện Kiểm sát Nhân dân khẳng định, có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo vợ mình ký hợp đồng ủy thác đầu tư tài chính với Nguyễn Thúy Hương để chuyển lợi nhuận của Công ty B&B cho em gái. Vị vậy, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên truy tố bị cáo Kiên phạm tội trốn thuế.
Về hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, các luật sư bào chữa và Nguyễn Đức Kiên nói không phạm tội lừa đảo, không chiếm đoạt khoản 264 tỉ đồng của Thép Hòa Phát, tiền mua cổ phần chuyển vào tài khoản của Công ty cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội (gọi tắt là ACBI) do Bầu Kiên thành lập chứ không chuyển cho Kiên, nhưng VKS cho rằng lợi nhuận của ACBI là lợi nhuận của Kiên. Công ty do Kiên là chủ tịch HĐQT và Kiên phải chịu trách nhiệm về số tiền này.
Về hành vi “kinh doanh trái phép” của Nguyễn Đức Kiên, VKS cho rằng, cả 5 công ty do Bầu Kiên thành lập đều không đăng kí ngành nghề kinh doanh tài chính là mua cổ phần cổ phiếu và góp vốn. Sau khi thành lập, 5 công ty vẫn mua cổ phần, cổ phiếu, góp vốn vào doanh nghiệp khác nhưng không kê khai đăng kí bổ sung theo quy định tại điều 26 Luật Doanh Nghiệp.
Theo đại diện VKS, căn cứ các quy định của pháp luật thì 5 công ty trên đã mua bán cổ phần, cổ phiếu, góp vốn vào các doanh nghiệp khác nhưng các ngành này không ghi trên GCN đăng kí kinh doanh là trái quy định tại điều 9 Luật Doanh nghiệp. VKS giữ nguyên quan điểm, khẳng định VKSND Tối cao truy tố Nguyễn Đức Kiên tội kinh doanh trái phép là có cơ sở.
Về lập luận của bầu Kiên và các luật sư cho rằng không kinh doanh vàng mà chỉ kinh doanh giá vàng tại công ty Thiên Nam, VKS dẫn chứng các lần Kiên đặt lệnh mua bán vàng như trong cáo trạng. Theo VKS, Kiên đã chỉ đạo công ty Thiên Nam kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài. Ngân hàng ACB chỉ là trung gian tạo dựng quy mô giao dịch theo yêu cầu của Thiên Nam.
Công ty Thiên Nam không được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài, đủ để kết luận việc kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của Nguyễn Đức Kiên thông qua công ty Thiên Nam là trái phép.
Đối với tội “cố ý làm trái” đại diện VKS cũng hồi đáp, giữ nguyên cáo trạng đã truy tố. Về hành vi mua cổ phiếu của ACB, đại diện VKS cho rằng việc HĐQT bàn việc mua cổ phiếu đã được bàn bạc rất sâu và cụ thể, giao cho Nguyễn Đức Kiên chỉ đạo thực hiện. Trong cuộc họp này cũng đã bàn đến cả yếu tố rủi ro, hạn mức giao cho ACBS.
Nguyễn Đức Kiên khi khai trước tòa về việc mua cổ phiếu là với tư cách Chủ tịch HĐQT ACI và ACI-HN thể hiện sự đan xen rất phức tạp. Trong việc cho KienLongBank, VietBank, tiền của ACB lại trở về ACB. VKS cho rằng ACI mượn tiền của ACB để mua chính cổ phiếu của ACB. Hoạt động này được thể hiện trong chính văn bản của ACI.
Lời khai của các bị cáo cũng thừa nhận bản chất số tiền mua cổ phiếu ACB chính là của ACB. Các bị cáo cũng khai việc đặt lệnh mua là do bị cáo Kiên chỉ đạo. Các bị cáo cũng thừa nhận hậu quả. Về việc ACB khăng khăng cho rằng ACB không thiệt hại, đại diện VKS cho rằng đó là nhằm tránh tội cho các bị cáo.
"Bầu" Kiên tại tòa
Về việc ủy thác gửi tiền, đại diện VKS cho rằng thời điểm đó Luật các tổ chức tín dụng đã có hiệu lực. Các bị cáo liên quan đồng ý chủ trương ủy thác cho cá nhân đem tiền đi gửi là trái pháp luật, không đúng với Luật các tổ chức tín dụng, trái với giấy phép hoạt động của ACB (chỉ được tiếp nhận ủy thác chứ không được ủy thác). Quá trình cho vay cũng có nhiều sai phạm. Các nhân viên ACB không nắm được nghĩa vụ, trách nhiệm nào ngoài việc đến ký hợp đồng gửi tiền tại VietinBank mà chỉ thông qua Huỳnh Bảo Ngọc. Như vậy, ACB đã không làm đúng trách nhiệm. Hậu quả của việc làm trái này như Huyền Như đã thừa nhận là số tiền đã bị chiếm đoạt. Như vậy, có thể khẳng định, chủ trương ủy thác gửi tiền không đúng quy định và số tiền đó đã bị Huyền Như chiếm đoạt. Và vì vậy, việc truy tố của VKS là có căn cứ. Vai trò chỉ đạo của Nguyễn Đức Kiên là rõ ràng. Hành vi của Huyền Như đã bị truy tố trong vụ án khác nên tại tòa VKS không đề cập đến việc ai phải chịu trách nhiệm bồi thường số tiền này.
Đại diện VKS cho rằng việc cơ quan tố tụng sử dụng công văn của NHNN là việc thu thập chứng cứ. Ngoài công văn này còn có nhiều tài liệu khác bổ sung trong hệ thống chứng cứ, phản ánh đúng bản chất vụ án. Cơ quan tố tụng không chỉ căn cứ vào công văn của NHNN.
Đại diện VKS cũng phản biện lại quan điểm của các bị cáo và luật sư, VKS nói rằng, cáo trạng không đặt vấn đề ra nghị quyết ủy thác trái với điều 106, Luật Các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên khi luật có hiệu lực, các bị cáo vẫn tiếp tục thực hiện ủy thác và điều này trái với Luật các tổ chức tín dụng. Tại phiên tòa này, VKS không đề nghị không đưa Huyền Như vào vụ án vì Huyền Như được xử lý ở một vụ án khác.
Đối với các hành vi khác, các bị cáo khác, văn bản của VKS đã viện dẫn khá cụ thể văn bản luật nên VKS không nhắc lại.
Trước khi HĐXX tuyên bố kết thúc phần tranh luận, đại diện VKS tuyên bố vẫn giữ nguyên truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm.