Viện kiểm sát nêu 11 vi phạm tố tụng, đề nghị hủy án ly hôn ông Vũ, bà Thảo
Ngày 12/4 VKSND TP.HCM cho biết đã có văn bản gửi các đơn vị liên quan và đương sự để thông báo về việc kháng nghị theo hướng hủy bán án sơ thẩm đã tuyên đối với vụ ly hôn giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo.
Bà Diệp Thảo trả lời báo chí tại phiên tòa.
VKSND TP.HCM nêu ra 11 lý do dưới đây, mà cơ quan này cho rằng đã có “vi phạm về tố tụng”.
1. Bản án tuyên không nhận định đầy đủ và nếu chưa chính xác ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa ngày 27/3/2019.
2. Tòa án vi phạm về thủ tục tố tụng khi giải quyết yêu cầu phản tố của đương sự: Ngày 18/7/2016, ông Vũ có yêu cầu phản tố chia tiền, vàng và ngoại tệ mà bà Thảo gửi tại các ngân hàng. Tuy nhiên từ khi thụ lý yêu cầu phản tố này, thẩm phán thực hiện không đúng thủ tục yêu cầu phản tố như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn, không tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải trước khi mở phiên tòa, mà lồng ghép việc này trong quá trình xét xử và không được bà Thảo chấp nhận. VKS cho rằng điều này vi phạm quy định của Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
3. Bản án tuyên thời gian cấp dưỡng tính từ năm 2013 đến khi các cháu trưởng thành, lao động và tự lập được là chưa phù hợp với ý chí của các đương sự tại phiên tòa và gây khó khăn cho việc thi hành án.
4. Bản án tính số tài sản của vợ chồng trong 7 công ty tổng cộng 5.737.883.700.000đ là chưa đúng, số đúng là 5.655.003.401.265đ (chênh lệch 82.880.298.735đ. Từ đó dẫn đến tính số tiền mỗi bên được hưởng không đúng và số tiền chênh lệch ông Vũ phải trả bà Thảo 1.223.829.839.855đ là chưa đúng, số đúng là 1.190.677.720.361đ (chênh lệch 33.152.119.494đ) dẫn đến số tiền án phá các đương sự phải chịu không đúng.
5. Đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng là 7 công ty Trung Nguyên: Trong bản án nhận định tài sản chung vợ chồng nằm trong khối tài sản 7 công ty, nhưng phần lập luận chia cổ phần lại nhận định khi hai đương sự cùng trong tập đoàn Trung Nguyên sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
VKS cho rằng bản án đã chia cho ông Vũ hưởng 60%, bà Thảo hưởng 40% cổ phần là không phù hợp với quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014, đồng thời giao cho ông Vũ sở hữu toàn bộ số cổ phần tại 7 công ty và trả chênh lệch tài sản cho bà Thảo là không công bằng vì cổ phần chưa được định giá trị, giá trị thương hiệu, ngoài ra cổ đông còn có các quyền quản trị công ty. quyền tài sản đối với cổ phần, quyền được chia cổ tức, quyền về thông tin, kiểm soát trong công ty, nếu chia cho ông Đặng Lê Nguyên Vũ sở hữu toàn bộ cổ phần tại 7 công ty là đã tước mất quyền của bà Lê Hoàng Diệp Thảo theo quy định tại Điều 110, Điều 119 Luật Doanh nghiệp 2014,
Vị đại diện VKS trong phiên tòa ly hôn giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo.
6. Bản án không tuyên đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu khởi kiện và yêu cầu phản tố đã rút là thiếu sót.
7. Bản án áp dụng nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 (ngày 30-12-2016) làm căn cứ để tính án phí là chưa chính xác, bởi lẽ vụ án đã được thụ lý từ năm 2015.
8. Án tuyên đình chỉ tất cả các yêu cầu khác của các bên đương sự là ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo đối với các công ty thuộc Tập đoàn Trung Nguyên phát sinh trong các hoạt động kinh doanh thương mại với tư cách là cổ đông và thành viên công ty liên quan đến việc thành lập, chuyển nhượng, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức công ty và các hoạt động khác về kinh doanh thương mại liên quan đến tất cả các công ty thuộc Tập đoàn Trung Nguyên là vượt quá yêu cầu khởi kiện của các đương sự, không thuộc phạm vi giải quyết của vụ án và gây khó khăn trong việc thi hành án.
9. Đối với số tiền 1.764.633.211.401,22 đồng gửi tại ba ngân hàng trên do ông Vũ cung cấp, nhưng đến khi tòa tuyên án thì số dư chỉ còn 1.312.686.303 đồng. Hội đồng xét xử sơ thẩm chưa xác minh làm rõ nguồn gốc hình thành số tiền, sau đó được chuyển đến đâu, thời gian nào, sử dụng vào mục đích gì và hiện nay ai đang quản lý, chỉ khi đã được làm rõ thì mới đảm bảo việc chia tài sản chung của các đương sự. Quyết định của bản án là chưa chính xác, gây khó khăn cho việc thi hành án bởi lẽ kết quả xác minh tại thời điểm xét xử số dư tại ba ngân hàng chỉ còn 1.312.686.303 đồng.
10. Án tuyên: Giao bà Lê Hoàng Diệp Thảo quản lý và sử dụng trị giá quyền sử dụng đất và sở hữu trị giá toàn bộ tài sản trên đất là chưa chính xác vì bà Thảo được sở hữu tài sản chứ không phải sở hữu trị giá tài sản.
11. Án tuyên: Kể từ ngày bà Lê Hoàng Diệp Thảo có đơn đề nghị thi hành án, ông Đặng Lê Nguyên Vũ không tự nguyện thi hành thì hàng tháng còn phải chịu lãi suất theo mức lãi suất quá hạn trung bình theo quy định của Ngân hàng nhà nước đối với số tiền chưa thi hành án tương ứng với thời hạn chưa thi hành án là chưa đúng với quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trước đó cả ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo cũng đều có đơn kháng cáo bản án. Trong khi ông Vũ muốn được chia theo tỷ lệ 70/30 thì bà Thảo không đồng ý quan điểm của tòa về việc chia tài sản theo tỷ lệ 60/40.
Bà Lê Hoàng Diệp Thảo kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm vụ ly hôn giữa bà với ông Đặng Lê Nguyên Vũ