Trịnh Xuân Thanh: Cấp dưới báo như khóc mới biết sai
Sáng nay (9-1), phiên tòa xét xử bị cáo Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh và các đồng phạm bước sang ngày xét xử thứ 2.
Bị cáo Vũ Đức Thuận (nguyên TGĐ PVC) và Nguyễn Mạnh Tiến (nguyên Phó TGĐ PVC) được đưa ra phòng cách li.
Không đọc hồ sơ vẫn ký duyệt
Trước đó, 8h24, Tòa bắt đầu thẩm vấn bị cáo Trịnh Xuân Thanh.
.Tình hình tài chính của PVC thời điểm 2011?
+Báo cáo kiểm toán của nhà nước và các báo cáo kiểm toán chính thống thì PVC đã lên sàn chứng khoán từ 2009. Năm 2011, theo báo cáo tài chính niêm yết, Tổng công ty (TCT) vẫn có lãi, số lãi cụ thể bị cáo không nhớ nhưng lúc đó đã tiềm ẩn nguy cơ thua lỗ.
. Số vốn đầu tư so với vốn điều lệ?
+Mức vốn đầu tư cho các công ty con, các thành viên khác vượt vốn điều lệ của PVC (vượt khoảng gần 1.000 tỉ). Khi đó thực hiện quyết định tái cơ cấu của CP, PVC là một trong 5 mũi nhọn của PVN, thuộc khối dịch vụ, thực hiện các dịch vụ thi công, xây lắp. PVN chuyển một số đơn vị như bất động sản của một số đơn vị thành viên của PVN như PVPower... về TCT của bị cáo. Khi chuyển về thì chuyển vốn của họ về cho TCT bị cáo.
Trước khi chuyển các đơn vị đó về, PVC chỉ vay vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh. Sau khi chuyển về, nếu vay vốn NH thì số tiền lãi quá nhiều nên đã thực hiện vay ủy thác qua OceanBank, một số cái khác có thể cho nợ. PVN cũng yêu cầu TCT khi tăng vốn điều lệ lên 4.500 tỉ thì số tiền đó được dùng để trả khoản nợ này.
Ông Thanh sau đó cho biết, riêng vay OceanBank khoảng hơn 700 tỉ.
Tại thời điểm PVN chỉ đạo PVC thực hiện Thái Bình 2, PVC là đơn vị thi công nên rất mừng vì đã được lựa chọn làm tổng thầu dự án này. Mặc dù biết PVC chưa đủ điều kiện nhưng thực tế ở thời điểm đó, cả nước VN cũng chỉ có Lilama và PVC có thể thực hiện được dự án này thôi.
Ông Thanh cũng giải thích, ban đầu PVN trình phương án có PVC và các nhà thầu nước ngoài, sau đó chỉ còn PVC vì theo luật đấu thầu lúc đó không thể chỉ định thầu cho nhà thầu nước ngoài. Dù là chỉ định thầu cho PVC thì cũng là PVC thuê các nhà thầu nước ngoài.
. Đầu tư vượt vốn điều lệ gần 1.000 tỉ. Với năng lực lúc đó, bị cáo thấy thực hiện dự án Thái Bình 2 với vai trò tổng thầu thì thế nào?
+ Kế hoạch là năm 2012, PVC sẽ tăng vốn điều lệ để bù đắp. Tại thời điểm đó, nếu đơn vị xây lắp nhận được một dự án thì rất tốt vì tạo công ăn việc làm cho cán bộ, nâng cao năng lực, thêm nữa có dự án sẽ có lợi nhuận. Càng khó khăn càng có công việc thì là điều mừng
.Thực hiện tái cơ cấu, PVN giao thêm một số dự án được chuyển về cho PVC thực hiện, trong khi điều kiện tài chính đang có vấn đề thì là yếu tố thuận lợi hay khó khăn?
+ Tại thời điểm đó, những dự án PVN giao cho PVC làm đều rất thuận lợi. Khi triển khai những dự án đó, các kế hoạch về tài chính đều rất rõ ràng, thậm chí nhận được tiền tạm ứng trước. Bị cáo và PVC hy vọng trong hoàn cảnh đó sẽ vượt qua được khó khăn.
“Báo cáo HĐXX, những công ty thua lỗ thời điểm đó do 2009-2010 đầu tư vào bất động sản. Lúc đó 25-30 triệu đồng/m2, thời điểm đó bán 10 triệu không ai mua”- ông Thanh nói thêm.
Trịnh Xuân Thanh tại tòa. Ảnh chụp qua màn hình
Liên quan đến hợp đồng số 33, ông Thanh trình bày:
Khi HĐQT, đại diện là bị cáo, được PVN giao nhiệm vụ triển khai dự án này, HĐQT giao Ban TGĐ rà soát thủ tục đúng theo quy định của pháp luật để ký hợp đồng 33. Lúc đó TGĐ là anh Vũ Đức Thuận giao anh Hải phụ trách hợp đồng 33. Với yêu cầu của PVN phải thành công trong quý 1-2011, Ban TGĐ, đặc biệt chỗ anh Hải báo cáo đã chuẩn bị trong hồ sơ, nhưng do thời gian ngắn thì hồ sơ đề xuất làm không kịp.
Lãnh đạo PVN vẫn quyết định khởi công đúng kế hoạch, hồ sơ giấy tờ chưa đủ thì sẽ hoàn chỉnh sau.
Trong hợp đồng 33, quá trình điều tra, bị cáo biết toàn bộ phụ lục không có. Thời điểm đó, bị cáo có khuyết điểm...
“Bị cáo không đọc hợp đồng 33, nếu đọc thì sẽ không để xảy ra tình trạng thiếu cái này, thiếu cái kia”- bị cáo Thanh nói.
.Vì sao thiếu vẫn triển khai ký?
+ PVN yêu cầu khởi công trong đầu tháng 3. Nếu thiếu hồ sơ cho phép hoàn thiện sau.
.Nếu bị cáo không xem hợp đồng thì làm sao triển khai? + Bị cáo có xem nội dung chính (?)
Bị cáo Thanh cho biết, việc đề xuất tạm ứng tiền thuộc trách nhiệm của Ban TGĐ, không cần báo cáo Chủ tịch HĐQT. Tại các cuộc họp, bị cáo có hỏi tiến độ tạm ứng thế nào.
.Khi có tiền tạm ứng rồi, việc chi tiêu được thực hiện thế nào?
+Toàn bộ phần chi tiêu đó thuộc thẩm quyền của Ban TGĐ, Kế toán trưởng có trách nhiệm báo cáo với TGĐ, không phải báo cáo với HĐQT.
.Bị cáo có biết việc chi tiêu đó không?
+ Sau có phát hiện ra, khoảng tháng 9-2011. Bị cáo đã yêu cầu báo cáo Tập đoàn PVN.
.Việc chi tiêu 10 khoản vào công ty khác do Ban TGĐ chi tiêu, khoản chi tiêu đó có đúng không?
+Trong vấn đề góp vốn vào các công ty bắt buộc phải có nghị quyết của HĐQT. Trong nghị quyết ghi rõ góp tiền bằng cách nào. Trong các đơn vị đó bị cáo đều ghi góp vốn bằng tiền vay, tiền hiện có hoặc các khoản tiền nhàn rỗi khác. Nếu chi sai nguyên tắc đó là trách nhiệm của Kế toán trưởng vì không có ý kiến với ban TGĐ dẫn đến chi tiêu sai.
“Dù thời điểm đó khó khăn về tài chính nhưng PVC lúc nào cũng được các NH sẵn sàng cho vay”- ông Thanh khai tại tòa.
Cấp dưới báo như khóc mới biết
Tòa cho đối chất với Phạm Tiến Đạt (nguyên Kế toán trưởng PVC).
Bị cáo Đạt khai: Anh Thanh có nói nguồn vốn thực hiện sau khi phương án tăng vốn hoàn thành. Nhưng các quyết định góp vốn vào các đơn vị này đã được HĐQT phê duyệt trước khi bị cáo lên làm kế toán trưởng.
“Do mất cân đối trầm trọng thời điểm 2011, không có bất cứ nguồn vốn nào khác mà HĐQT vẫn quyết định góp vốn thì buộc phải chiếm dụng vốn của dự án khác. Bị cáo cũng đã nói rõ việc dùng tiền của Thái Bình 2 là không được, nếu các anh dùng thì sau này phải có trách nhiệm hoàn trả.”- bị cáo Đạt nói.
.Ai chỉ đạo quyết định việc chi tiêu?
+ Về chủ trương đầu tư do HĐQT quyết. Khi triển khai, TGĐ có giao cho Ban tài chính kế toán phải cân đối nguồn vốn hiện có.
.Khi bị cáo báo cáo về nguồn vốn mất cân đối, phải sử dụng nguồn tạm ứng của Thái Bình 2 thì bị cáo Thanh có nói gì không?
+Tại các cuộc họp giao ban, bị cáo đều có báo cáo, nếu nguồn vốn của Thái Bình 2 thì phải dùng cho Thái Bình 2 nhưng các anh không có ý kiến gì.
.Tại thời điểm đó dòng vốn không có. Nhưng bị cáo Thanh nói nếu cần đi vay thì các NH sẵn sàng cho vay?
+Bị cáo từng làm ở NH, không có nguồn tắc nào cho vay để đi đầu tư góp vốn cả nên không có cách nào khác phải đi chiếm dụng các nguồn vốn khác.
Tòa tiếp tục hỏi bị cáo Thanh:
Bị cáo Thanh khai: Đúng là khi HĐQT ra nghị quyết thì ban TGĐ, kế toán có trách nhiệm báo cáo với nghị quyết đó thì có huy động được nguồn tiền không nhưng họ không báo cáo.
“Việc góp vốn vào các đơn vị này dùng nguồn tiền của Thái Bình là sai”- bị cáo Thanh thừa nhận và tiếp tục khẳng định: "Khoảng tháng 9 bị cáo mới phát hiện ra việc này. Khi đó anh Đạt lên phòng bị cáo báo cáo, gần như là khóc, bị cáo mới biết việc sử dụng nguồn tiền sai. Bị cáo đã có nhiều văn bản chỉ đạo gửi các đơn vị yêu cầu gửi lại".
.Với tình hình không có tiền vẫn nghĩ đến đầu tư, bị cáo có nghĩ tới lấy nguồn tiền từ đâu không?
+ Trước khi phê duyệt chủ trương đầu tư cho 5 công ty tại Hội nghị cổ đông, HĐQT PVC đã thông qua và trình PVN phê duyệt thì bị cáo mới đưa ra trình tại đại hội cổ đông chứ không phải bị cáo tự quyết định. Bị cáo không bao giờ chỉ đạo dùng nguồn tiền sai. Ban TGĐ không huy động được nguồn tiền thì hoàn toàn có thể báo cáo lại với HĐQT.
Ông Thanh sau đó chỉ nhận lỗi đã không đọc kỹ hợp đồng số 33, nếu không đã đề xuất Ban TGĐ thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Tòa xét hỏi bị cáo Vũ Đức Thuận (nguyên TGĐ PVC)
Phiên tòa vẫn đang tiếp tục...
Các bị cáo trong vụ án Nhóm bị cáo phạm tội cố ý làm trái: 1. Đinh La Thăng (nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN) 2. Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch HĐQT, TGĐ Tổng công ty Cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam PVC). 3. Phùng Đình Thực (Nguyên TGĐ PVN). 4. Nguyễn Quốc Khánh (Nguyên Phó TGĐ PVN). 5. Nguyễn Xuân Sơn (nguyên Phó TGĐ PVN) 6. Vũ Đức Thuận (nguyên TGĐ PVC). 7. Ninh Văn Quỳnh (nguyên Kế toán trưởng kiêm Trưởng Ban tài chính kế toán và Kiểm toán PVN). 8. Lê Đình Mậu (nguyên Phó Trưởng Ban Kế toán và Kiểm toán PVN) 9. Vũ Hồng Chương (nguyên Trưởng Ban quản lý Dự án điện lực Dầu khí Thái Bình 2). 10. Trần Văn Nguyên (nguyên Kế toán trưởng Ban Quản lý Dự án Điện lực dầu khí Thái Bình 2). 11. Nguyễn Ngọc Quý (nguyên Phó chủ tịch HĐQT PVC). 12. Nguyễn Mạnh Tiến (nguyên Phó TGĐ PVC). 13. Phạm Tiến Đạt (nguyên Kế toán trưởng PVC). 14. Trương Quốc Dũng (Nguyên phó TGĐ PVC). Nhóm bị cáo phạm tội tham ô: 15. Nguyễn Anh Minh (nguyên Phó TGĐ PVC). 16. Bùi Mạnh Hiển (nguyên Chánh Văn phòng PVC). 17. Lương Văn Hòa (nguyên Giám đốc Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc Tổng công ty cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC). 18. Nguyễn Thành Quỳnh (Giám đốc Kỹ thuật Công nghệ, Tổng Công ty CP Miền Trung - Công ty Cổ phần (Đà Nẵng). 19. Lê Thị Anh Hoa (Giám đốc Công ty TNHH MTV Quỳnh Hoa) Chồng: Nguyễn Thành Quỳnh (cũng là bị cáo trong vụ án). 20. Nguyễn Đức Hưng (Nguyên Trưởng phòng Tài chính kế toán, Ban điều hành Vũng Áng - Quảng Trạch) 21. Lê Xuân Khánh (Nguyên Trưởng phòng kinh tế Kế hoạch, Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch) 22. Nguyễn Lý Hải (Nguyên Trưởng phòng kỹ thuật, Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch). Riêng hai bị cáo Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận bị truy tố về cả hai tội danh trên. |
Trong vụ án tại dự án Nhiệt điện Thái Bình 2, các cơ quan tố tụng xác định Nhà nước bị thất thoát lên tới gần 120...