Lính tàu ngầm Việt Nam ở xứ người
Sau gần nửa năm sang Liên Xô học lý thuyết kỹ thuật tàu ngầm, Thượng sĩ Phạm Hồng Sâm mới chính thức đặt chân xuống con tàu thật. Con tàu đen trùi trũi đỗ ở cảng biển Ri Ga (Latvia) to hơn chiếc máy bay boeing hiện đại.
Nghi lễ nhập môn
Cái cảm giác tanh tanh, nồng nồng khiến chàng lính trẻ hơi lợm trong cổ họng. Tàu ngầm vốn kín như bưng. Hơi người luôn đọng lại trong khoang không thoát ra được.
Những hành lang bằng sắt nối dài giữa các khoang. Xuống đến khoang dưới cùng, ngẩng đầu lên, ông chợt rùng mình trước dãy đồ người nhái treo thẳng tắp treo theo thứ tự trên chiếc giá dài ngoằng.
Máy móc, động cơ hàng trăm chi tiết đang nổ ran để nạp điện cho động cơ. Không khí trong khoang vốn nóng nực, ngột ngạt mà ông vẫn thấy hơi lành lạnh.
Ông Sâm biết, rồi đây, mình sẽ có những ngày dài sống trong “cỗ quan tài sắt” này. Ông là lính bộ phận ngành điện máy. Những cỗ máy với hàng ngàn chi tiết kia sẽ do ông và một vài người trong đội điều khiển, nắm giữ.
Phòng điện máy, nơi ông Sâm làm việc
Một trong những nghi lễ nhập môn của lính tàu ngầm là nâng ly dưới khoang tàu. Nhưng không phải ly rượu mà là ly nước biển mặn chát. Luật bất thành văn. Mỗi người tự mở vòi chắt ít nước biển vào ly của mình rồi cùng nhau uống cạn.
Đó là ly nước muối duy nhất trong đời mà ông Sâm không thấy mặn. Cái cảm giác thiêng liêng, trang trọng làm ông quên đi mọi cảm giác trực quan. Từ nay, Thượng sĩ Phạm Hồng Sâm và hơn 50 cán bộ chiến sĩ của khung tàu 1 đã chính thức là lính tàu ngầm.
Người giữ trái tim tàu ngầm
Có nhiều bộ phận làm các nhiệm vụ khác nhau bên trong tàu ngầm gồm các ngành: vũ khí dưới nước, ra đa, điện máy, thông tin và hàng hải... Hồi đầu, nhóm cán bộ, chiến sĩ của Việt Nam xuống tàu, mỗi bộ phận đều có ít nhất một cán bộ người Nga kèm cặp, sẵn sàng xử lý những tình huống khó. Nhưng sau nhiều chuyến, dần dần, họ rút hết. Cuối cùng họ chỉ để lại một, hai chuyên gia trong tàu để giám sát. Để đội ngũ sĩ quan, thủy thủ Việt Nam thực hiện mọi thao tác.
Ông Sâm đã trải qua những ngày dài sống trong tiếng ồn ào của buồng máy. Đến nỗi mỗi lần trở lại bờ, tiếng bùng nhùng bên tai vẫn ám ảnh không dứt. Ngành điện máy của ông Sâm chịu trách nhiệm về mọi vận hành chìm nổi, động cơ máy móc của tàu. Tàu vũ trụ thì ông chưa biết, nhưng tàu ngầm có lẽ là loại phương tiện phức tạp nhất mà ông Sâm từng biết cho đến nay.
Làm trong tổ điện máy tàu ngầm, mỗi người phải phụ trách một máy và thao tác chính xác từng chi tiết một. Ông Sâm phải nhớ tới cả ngàn chi tiết động cơ, trong đó có khoảng 100 chi tiết phải thuộc nằm lòng. Đến nỗi nhắm mắt, ông cũng phải sờ thấy đúng vị trí từng chi tiết đó. Mắt ông luôn phải cố căng ra để theo dõi đồng hồ đo nhiên liệu, điện máy, nồng độ khí, tỷ lệ nước trong khoang…
Chỉ cần sai một thao tác, giá phải trả là cực kỳ đắt. Tàu ngầm luôn có hai lớp vỏ bọc. Giữa hai lớp vỏ là các khoang để hút và xả nước. Khí được lệnh chìm xuống, bộ phận điện máy sẽ mở van nạp nước vào. Tất cả phải cùng thực hiện một lúc.
Nếu hai bên thân tàu chưa có nước mà phía đầu tàu nước đã đầy, ngay lập tức mũi tàu sẽ đâm thẳng xuống dưới như bị một quả tạ ngàn cân lôi xuống. Lúc đó, tàu sẽ không thể lấy thăng bằng trở lại được nữa. Hoặc bên trái có nước mà bên phải chưa kịp bơm vào, tàu cũng sẽ bị lật mà không có cách nào cứu vãn nổi.
Bởi vậy, lắng nghe và làm theo mệnh lệnh tức khắc dưới tàu ngầm là phản xạ thường trực của tổ điện máy.
Kỳ nghỉ đông tại Le-nin-grat của các chiến sĩ tàu ngầm
Tàu ngầm của Liên Xô mà Hải đội tàu ngầm 182 học tập ngày đó vẫn còn thô sơ hơn nhiều so với loại tàu lớp Kilo Việt Nam đang mua về. Hầu như mọi thứ vẫn được thao tác thủ công.
Tàu ngầm hiện đại có thể ở dưới nước liên tục 6-7 tháng trời không cần nổi lên. Tàu ngầm của Liên Xô ngày đó cũng có thể lặn liên tục hàng chục ngày. Nhưng ông Sâm nhớ, thường khoảng 48 tiếng đồng hồ, tàu lại trồi lên mặt nước để lấy khí tươi. Những khi đó, máy móc lại nổ râm ran để nạp điện cho máy.
Ắc quy chính là trái tim của tàu ngầm. Dù động cơ máy móc chạy bằng bất kỳ nhiên liệu gì diesel hay tàu ngầm nguyên tử thì mục đích vẫn là để nạp điện cho ắc quy. Bất cứ tàu ngầm nào cũng chạy bằng điện. Ắc quy hết điện thì máy diesel phải nạp.
Tàu ngầm phải luôn luôn chạy chứ không bao giờ đứng im một chỗ. Nếu muốn đứng, buộc phải tháo nước khỏi lớp vỏ, bơm khí vào để trồi lên. Tàu ngầm càng hiện đại, tiêu tốn càng ít nhiên liệu để hoạt động. Có những tàu bây giờ có thể ở dưới nước hàng tháng trời không cần nổi lên.
Nhiên liệu là yếu tố quyết định sự sống và cái chết. Tàu ngầm hết nhiên liệu thì ắc quy không có điện để chạy động cơ. Điều đó đồng nghĩa với cái chết.
Máy bay hết nhiên liệu vẫn có thể bay theo quán tính rồi lượn tìm chỗ bằng phẳng đáp xuống. Riêng tàu ngầm, hết nhiên liệu, không thể bơm khí vào khoang giữa hai lớp vỏ để trồi lên. Cũng không thể đứng một chỗ vì không còn lực nâng. Buộc tàu phải chìm dần xuống. Chìm xuống một độ sâu nào đó không còn chịu được áp suất, tàu sẽ bị bóp nát vụn.
Trên thực tế, từng có những tàu ngầm của Đức gặp sự cố này và đã bị vỡ nát, vĩnh viễn nằm lại dưới lòng đại dương. Bởi vậy, tổ điện máy của ông Sâm luôn phải biết được điều đó.
Ảnh chụp tại phòng học Acoustic, thiết bị là hệ thống sonal GAX 100 và GAX 200 của model 613 và 877
Sau những chuyến đi dài ở lâu dưới nước, đôi khi ông Sâm cũng cảm thấy mệt mỏi, ức chế thần kinh. Mắt ông đờ đẫn. Người lính tàu ngầm đôi khi cũng như chính con tàu của họ. Cứ âm thầm làm việc miệt mài. Những lúc đó, ông dễ sinh cáu bẳn. Khi tàu vừa trồi lên mặt nước cập cảng, ông bước từng bước uể oải về phòng nằm vật ra giường. Ông nhớ, mình đã chìm vào giấc ngủ hơn 1 ngày mà không ăn uống gì.
Những cái tai của tàu ngầm
Một bộ phận cực kỳ quan trọng quyết định sự sống còn của tàu ngầm chiến đấu chính là Acoustic. Những người trong tổ Acoustic được ví như cái tai của tàu ngầm.
Người ta thường nói đến các loại sóng ra đa của tàu ngầm có khả năng phát hiện mục tiêu dưới nước. Nhưng kỳ thực khi xuống nước, mọi thiết bị trên tàu cũng như các loại máy phát sóng thăm dò đều phải tắt. Chỉ có 2 thứ hoạt động là chân vịt và cái tai của tàu.
Đơn giản một lẽ, sóng âm dưới lòng đại dương là loại sóng cực kỳ dễ nhận biết. Cho nên, tàu ngầm luôn hoạt động âm thầm lặng lẽ dưới đáy biển. Tiếng chân vịt vẫy nước cho tàu chạy cũng phải phát âm thanh cực nhỏ.
Theo lý thuyết truyền âm, âm thanh "sục sục" của chân vịt phát ra ở bên Nam Phi thì bên Úc châu có khi cũng phát hiện được. Nếu để đối phương nghe được sóng âm từ tàu mình phát ra sẽ không có cơ hội sống sót.
Thuyền trưởng K1 anh Phạm Tân và Thuyền phó HH anh Đinh Hải Huy đến thăm lớp học ngành 3 rada tại phòng thiết bị rada - sonar
Những cựu thủy thủ tàu ngầm đánh giá, tàu ngầm lớp kilo của Nga (Việt Nam đang đặt hàng) được gọi là "hố đen đại dương" chính vì điều này. Chân vịt của loại tàu này hoạt động cực êm, lúc chạy cũng như đứng yên. Nếu nó không phát sóng sona thì rất khó thiết bị nào có thể phát hiện ra.
Chính vì vậy, ở dưới độ sâu hàng trăm mét đại dương, rất cần những cái tai như của tổ trưởng Acoustic Vũ Hồng Hảo. Đến giờ, ông Hảo vẫn thừa nhận được trời phú cho đôi tai cực thính.
Khi con tàu lầm lũi bước đi dưới bóng tối của đại dương, mọi thứ trở nên lặng lẽ với người trên tàu. Chỉ duy nhất bộ phận Acoustic phải nghe đủ thứ âm thanh dưới đáy biển đập vào tai. Tiếng cá lội, tiếng máy tàu hàng, tiếng chân vịt của một chiếc tàu ngầm dò thám nào đó cách xa hàng chục cây số.
Ông Hảo đã được học về lý thuyết sóng của từng loại âm thanh dưới đáy biển. Nhưng có nghe và phân tích được chính xác hay không lại là chuyện khác. Đó là thời kỳ chiến tranh lạnh. Không có những cuộc chiến đấu, rượt đuổi nhau. Nhưng đi dưới độ sâu hàng trăm mét của biển Baltic tối tăm, mọi bất trắc đều có thể xảy ra.
Ông Hảo phải nhuần nhuyễn mọi thứ âm thanh đó. Nếu xảy ra chiến sự, Thuyền trưởng ra quyết định bắn hay không là tùy thuộc vào khả năng phân tích âm thanh của những người như ông Hảo.
Khi tàu ngầm quyết định phóng ngư lôi, bộ phận Acoustic luôn phải xác định loại tàu to lớn cỡ nào, tương ứng với loại đạn có sức công phá bao nhiêu, hướng đi, tọa độ thế nào. Khi đã xác định đúng mục tiêu, tọa độ, chắc chắn không bao giờ bắn trượt. Dù tàu địch có chạy quả lôi vẫn sẽ đuổi theo mục tiêu đến cùng.
Sĩ quan và thủy thủ của Hải đội vẫn nhớ, các chuyên gia nước bạn ngày đó rất khâm phục tài nghe của đội trưởng Vũ Hồng Hảo. Họ nói rằng, Việt Nam có khoảng chục người như vậy thì đảm bảo không có loại tàu địch nào có thể thâm nhập được vùng biển Đông.
"Những chuyến đi trong lòng đại dương luôn ẩn chứa muôn vàn nguy hiểm. Những lần thủy thủ chui ra khỏi tàu ngầm dưới độ sâu gần trăm mét, trong lòng biển tối tăm lạnh lẽo càng đáng sợ bội phần. Ai không có tâm lý vững vàng, khó lòng vượt qua nổi." Đón đọc kỳ tiếp theo: Lính tàu ngầm VN: Những lần nghẹt thở vào 10h00 ngày 17/3 |