Làng không chồng ở Việt Nam trên báo Mỹ

Khác thường, đặc biệt, dũng cảm và nội lực mạnh mẽ là những từ mà tờ báo New York Times của Mỹ dành cho những người phụ nữ làng Lòi, ngôi làng không chồng ở Nghệ An, Việt Nam.

Ngôi làng không hề có bóng dáng một người đàn ông, không phải vì họ đã hi sinh trong chiến tranh mà bởi những người phụ nữ nơi đây đều quyết định có con mà không cần đến chồng.

Câu chuyện buồn bắt đầu từ thời chiến tranh chống Mỹ, khi thanh niên Việt Nam bỏ lại tuổi thanh xuân của mình cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Một thập kỉ sau hòa bình lập lại, những người phụ nữ đầu tiên của làng Lòi, cũng giống như bao nhiêu người cùng thế hệ khác cùng có chung nỗi lòng khi hạnh phúc gia đình không trọn vẹn.

Vào thời điểm đó, phụ nữ Việt Nam thường kết hôn ở tuổi 16, những người vẫn còn độc thân ở tuổi 20 thường được coi là đã “quá lứa” hay đã qua tuổi kết hôn. Khi những người đàn ông sống sót trở về từ chiến tranh, họ thường lấy những phụ nữ trẻ tuổi hơn. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi khi đó, do chiến tranh nên tỉ lệ giới thiếu cân bằng. Theo Tổng điều tra dân số Việt Nam năm 2009, sau khi thống nhất đất nước, trung bình tỉ lệ là 88 người đàn ông ứng với 100 phụ nữ tuổi từ 20 tới 44 vào năm 1979.

Làng không chồng ở Việt Nam trên báo Mỹ - 1

Bà Nguyễn Thị Nhan cùng cháu nhỏ trong ngôi nhà ở làng không chồng, làng Lòi, Nghệ An.

Không chấp nhận cuộc sống đơn thân cô độc khi về già, một nhóm phụ nữ ở làng Lòi đã quyết định mỗi người, bằng cách này hay cách khác, đi xin, kiếm cho mình một đứa con. Hiểu cho những thân phận éo le và khát khao làm mẹ của chị em làng Lòi nên cũng chẳng ai xì xào bàn tán chuyện gì.

Họ đã cống hiến hết mình cho dân tộc trong chiến tranh, bên trong họ là nguồn nội lực mạnh mẽ giúp họ vượt qua mọi rào cản của xã hội để đi đến quyết định không cam chịu chết đơn độc khi về già mà không người hương khói, tờ New York Times kể về những người phụ nữ làng Lòi.

Bà Harriet Phinney, trợ lý giáo sư nhân chủng học tại trường Đai học Seattle, cho biết: “Đây là điều khác thường và rất đặc biệt”. Sở dĩ đặc biệt là bởi việc cố gắng để có con ngoài giá thú là điều “chưa từng có” trước thời kì cách mạng.

Bà Phinney cho rằng đây không những là sản phẩm về lòng dũng cảm của các bà mẹ mà còn là sự cảm thông của xã hội sau chiến tranh với những người phụ nữ có cuộc sống đặc biệt trên khắp Việt Nam, bao gồm hàng ngàn góa phụ phải nuôi con một mình.

Theo New York Times, một số người phụ nữ trong làng Lòi khá cởi mở, họ sẵn lòng chia sẻ những câu chuyện buồn của mình. Tuy nhiên, họ cũng nhất quyết giữ bí mật tên bố của những đứa trẻ. Một trong số những phụ nữ đầu tiên “xin con” ở làng Lòi là chị Nguyễn Thị Nhan, hiện đã 58 tuổi.

Chị Nhan từng là thanh niên xung phong trong chiến tranh. Sau chiến tranh, chị Nhan cùng đứa con gái sắp chào đời tưởng sẽ được đoàn tụ cùng chồng nhưng anh đã bỏ rơi hai mẹ con, định cư ở Lâm Đồng cùng gia đình mới.

Chị sinh con trong cô đơn, tủi hổ. Trốn tránh miệng lưỡi thế gian, chị ôm con tới một một bãi đất hoang ở làng Lòi, dựng nhà sinh sống. Đến năm 1988, chị liều “xin” một đứa con với người đàn ông cùng xã. Sau lần đó, chị có thêm một đứa con trai. Tiếp bước chị còn có hàng chục phụ nữ khác cùng hoàn cảnh, “khai sinh” nên ngôi làng không chồng.

Những mảnh đời éo le này cùng nương tựa vào nhau mà sống. Dù cuộc sống đơn thân còn bộn bề khó khăn nhưng chỉ cần có tiếng trẻ con là bao nỗi cô đơn, nặng nhọc đều vơi đi.

Ngoài làng Lòi còn rất nhiều phụ nữ Việt Nam có chung quyết định đơn thân, đặc biệt là những người đã từng tham gia cách mạng. Một thời gian dài, điều này đã gây sự chú ý của Hội Phụ nữ, cơ quan chính phủ giám sát các chương trình dành cho phụ nữ.

“Rất nhiều phụ nữ đã hi sinh tất cả trong chiến tranh và việc ghi nhận sự hi sinh này là điều vô cùng quan trọng”, bà Trần Thị Ngôi, hội trưởng Hội Phụ nữ huyện Sóc Sơn, Hà Nội nói.

Năm 1986, chính phủ Việt Nam đã thông qua luật Hôn nhân Gia đình, trong đó lần đầu tiên công nhận những bà mẹ đơn thân và con cái của họ là hợp pháp. Đây là chiến thắng cho những người phụ nữ làng Lòi và những người phụ nữ khác cùng cảnh ngộ với họ.

“Mọi phụ nữ đều có quyền làm một người vợ, người mẹ và nếu họ không thể có một người chồng, họ vẫn có quyền có con”, bà Ngôi cho biết.

Kể từ đó, chính phủ vẫn đang làm việc với các tổ chức quốc tế để thúc đẩy quyền bình đẳng cho phụ nữ cũng như nâng cao giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho họ. Ngày nay, tuy những bà mẹ đơn thân vẫn gặp nhiều khó khăn nhưng nhưng sáng hiến và hỗ trợ của chính phủ cũng đã phần nào đạt được kết quả.

Hiện nay, ở làng Lòi chỉ còn lại 4 người trong số 17 người thành lập nên ngôi làng này. Ba người đã mất, một số người chuyển đến sống cùng con cái ở làng khác, số khác lấy những người đàn ông đã góa vợ.

Chia sẻ
Gửi góp ý
Lưu bài Bỏ lưu bài
Theo Phan Yến ( Tiền Phong/New York Times)
Báo lỗi nội dung
GÓP Ý GIAO DIỆN