Lạc lối ở lưng chừng "miền đất khổ"
Nằm ngay dưới chân dãy Phà Cà Tún, Tri Lễ là xã cao nhất, khó khăn nhất của huyện miền núi Quế Phong (Nghệ An). Cũng vì ở cao quá mà Tri Lễ lắm chuyện bi hài.
Vùng đất của những chuyện buồn
"Miền đất khổ" theo cách gọi của người dân xã Tri Lễ bao gồm 8 bản người Mông, hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài. Con đường độc đạo xuyên qua núi rừng miền biên viễn lúc gồ ghề dốc cao, lúc lại hút sâu thăm thẳm. Dọc đường độc đạo vào vùng đất khổ thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp cầu khỉ của người dân dựng lên, muốn đi qua phải nộp phí 5 ngàn đồng.
Dòng sông Nậm Quàng chảy từ núi Phà Cà Tún qua thác qua ghềnh, một trận mưa nhỏ cũng khiến sông trở thành hung dữ, trở thành bức tường chia cắt, cô lập. Khó khăn, gian khổ nên Chủ tịch UBND xã Lô Văn Thu bảo rằng vùng đất như một thế giới riêng, lắm chuyện lạ và buồn.
Một vùng đất mà ông ví von kiểu “chính sách của Nhà nước cứ như ông già leo núi, leo được nửa chừng rồi quay lại hết”. Người dân tự do di cư trái pháp luật. Những phong tục, hủ tục vẫn còn len lỏi trong từng bản làng: tục bắt vợ, tục ma chay, người chết để cả tuần…
Cả xã Tri Lễ có 1.748 hộ, trong đó 73% hộ nghèo, riêng 8 bản người Mông số hộ nghèo chẳng cần thống kê bởi lúc nào cũng 100%. Không ai biết chính xác số hộ dân ở 8 bản này là bao nhiêu bởi những mùa rẫy, những mùa di cư vô định. Sản xuất kiểu phát nương đốt rẫy, nên cứ mỗi mùa vụ đi qua dân bản hụt đi vài phần, nhưng có khi vụ tới lại tăng gấp đôi cũng chẳng chừng.
Dân các bản mỗi người có 2-3 tên nên thỉnh thoảng lại sang Lào ở vài năm rồi về, có khi ở hẳn. Cán bộ tuyên truyền răng di cư như thế là trái với pháp luật, nhưng ở một nơi như vùng cao này thì pháp luật nếu áp dụng khắt khe có khi các bản đều đi tù hết.
Như năm 2009, bản Mường Lống và Huồi Xai tự nhiên đón 115 hộ dân hồi hương do bị bên Lào trục xuất. Rẫy không có, nhà ở cũng không nên họ sống chẳng khác gì dân du mục, cả năm trời lang thang trong rừng, trên núi, chẳng ai biết đến. Đàn ông đi săn bắn, đàn bà lên rẫy trồng cây thuốc phiện. 115 hộ dân nhưng nghiện hút nhiều vô kể.
Tôi gặp Và Xồng Pó (42 tuổi) trở về từ năm 2009. Pó kể bằng tiếng Mông, tạm dịch thế này: “Tui nghe dân bản bảo bên Lào nhiều rừng, đất đai phì nhiều, dễ làm nương rẫy. Nhưng đi sang rồi mới biết bên họ cũng như mình. Bán nhà bán cửa để đi, đến lúc bị đuổi về không còn gì cả. Vợ chết, chỉ còn lại hai bàn tay trắng và 4 đứa con nheo nhóc”.
Ngay cả những người được cán bộ xã kỳ vọng sẽ góp sức tuyên truyền bà con định canh định cư như thầy giáo cũng bỏ làng, bỏ bản mà đi. Đầu năm nay, thầy giáo Thò Bá Sinh đang dạy học bình thường, tự dưng kéo cả gia đình đi đâu chẳng ai biết cả. Mãi đến đợt vừa rồi, có người từ bên Lào trở về thông báo là thầy giáo Sinh đang ở bên ấy vì bên ấy đất nương rẫy tốt hơn.
Ở tuổi đến lớp nhưng trẻ con ở vùng cao Tri Lễ đã phải lên nương
Những mùa bắt vợ trên những bản vùng cao cũng khiến vị Chủ tịch xã Tri Lễ cảm thấy rất buồn. Cũng giống như dân tộc mình ở nhiều nơi ngoài vùng cao Tây Bắc, người Mông ở Tri Lễ vẫn còn giữ tục bắt vợ cho dù không ít chuyện dở khóc dở cười.
Hôm tôi vào bản Mường Lống, đứa con gái nhà Và Dí Sinh tuổi vừa tròn 18, đẹp nhất bản nhưng chưa có chồng. Ở vùng cao, tuổi này chưa xây dựng gia đình là chuyện lạ. Càng lạ hơn nữa là cô con gái Và Thị Mý không những xinh mà còn giỏi đi nương, đi rẫy. Vậy nhưng trai bản cứ đến thổi khèn, uống rượu chứ chẳng thấy ai bắt Mý về.
Tự ái, mấy lần già Sinh hỏi thẳng bọn con trai trong bản thì chúng thủng thẳng mà rằng: Con gái ông bị người ta bắt vợ một lần rồi, bị nó “thịt” rồi, không ưng nên mới trốn về. Mất giá. Bọn tui không thèm lấy lại vợ của thằng khác.
Ông Lô Văn Thu than vãn rằng, tục bắt vợ khiến nạn tảo hôn ở đây còn rất phổ biến.
Chồng lớp 5, vợ lớp 4
Trường tiểu học Tri Lễ 4 được thành lập từ những năm 1976. Gần 40 năm lịch sử nhưng ngôi trường đến nay vẫn tạm bợ vì không thể đưa vật liệu vượt đường rừng hơn 20 cây số để mà xây dựng. Và, cũng chừng ấy thời gian, trường Tri Lễ 4 chẳng có một giáo viên nữ nào dám đủ gan dạ để vào.
Dường như cái khắc nghiệt của miền đất khổ khiến lãnh đạo Phòng GD-ĐT huyện Quế Phong tự đặt ra cái tiêu chí đưa giáo viên lên Tri Lễ phải là những thầy còn rất trẻ, chưa xây dựng gia đình, có sức khỏe để chống chọi với những khó khăn ở ngôi trường “đã vào thì khó ra, đã ra thì không muốn vào” này. Trường Tri lễ 4 có 41 giáo viên thì tất cả đều là thầy, quản lý, dạy dỗ khoảng 500 học sinh thuộc 6 bản: Huồi Xái 1, Huồi Xái 2, Mường Lống và Nậm Tột.
Lớp học vùng cao
Phó hiệu trưởng nhà trường là thầy Nguyễn Kỳ Tài, quê ở xã Nam Cường, huyện Nam Đàn (Nghệ An), một người gan dạ và tâm huyết. Gan dạ bởi thầy đã có thâm niên 5 năm chống chọi với miền đất khắc nghiệt này. Tâm huyết là vì cứ mùa học đến là thầy lại leo núi cả ngày trời lên rẫy kéo kéo học sinh về trường.
Hết hè cũng là thời điểm dân bản bắt đầu mùa làm nương rẫy. Mùa mà thầy giáo và phụ huynh năm nào cũng sinh ra mâu thuẫn, tranh giành. Thầy giành trò đi học, cha mẹ giành con lên nương. Mùa rẫy của người Mông thường kéo dài 3-4 tháng. Cứ độ tháng 10 âm lịch là bắt đầu, kéo dài cho đến Tết. Rẫy nằm tít trên những sườn núi của dãy Phà Cà Tún, đi bộ mất cả ngày đường nên chỉ cần cha mẹ đưa được con ra khỏi bản là thầy giáo mất mấy ngày đi tìm.
"Ngày đi dạy, tối đi vận động từng nhà cho con em đi học, nhưng sáng ra vẫn không thấy đến lớp. Đến từng nhà tìm thì cả gia đình kéo nhau lên rẫy mất rồi. 100% đều là học sinh nghèo nên chuyện lên rẫy được chú trọng hàng đầu. Không học không đói, chứ không lên rẫy thì lấy gì ăn? Nhận thức dân bản còn như thế cả”, thầy Tài lắc đầu ngán ngẩm.
Tựa như chuyện trường không có giáo viên nữ, thầy Tài bảo rằng, cách đây 5 năm, trường Tri Lễ hầu như chẳng có em học sinh nữ nào. Lý do chính là vì dân bản quan niệm, con gái chỉ để lấy chồng, sinh con hoặc đi rẫy thôi, không cần biết chữ. Những câu chuyện buồn càng khiến tôi khâm phục những giáo viên ở đây, họ cống hiến cả tuổi xuân của mình cho mảnh đất gian khổ này. Cũng có người muốn về, nhưng họ bảo, không có tiền chạy chọt nên không về được. |
Chỉ mới hôm qua thôi, thầy Tài bị Thào Bá Dua, phụ huynh em Thào Bá Lý, học sinh lớp 3 lừa thẳng cẳng. Thấy Lý nghỉ học mấy ngày, thầy Tài đến tận nhà để tìm hiểu nguyên do. Sau khi khề khà vài tuần rượu sắn, ông Dua cứ một hai là Lý con ông vừa ốm dậy. Vậy mà sáng sớm hôm sau, dân bản thấy ông Dua dắt Lý lên nương. Ông Dua còn nhờ người dân nhắn lại thầy Tài thông cảm, đến Tết gặp lại sẽ uống rượu phạt, còn bây giờ cháu nó còn phải đi kiếm ăn.
Cái sự học theo kiểu rảnh thì đến trường nên ở vùng cao Tri Lễ toàn phải học ghép vì thiếu học sinh. Điểm trường Nậm Tột nằm cách trường chính 2 tiếng rưỡi đi bộ. Hôm tôi đến, cả trường chỉ có mỗi lớp 3 là đủ học sinh để dạy. Gọi là đủ nhưng cả lớp cũng chỉ vỏn vẹn có 9 học sinh.
Cạnh lớp 3 là lớp 4, nơi thầy Tài buồn thiu vì một học sinh nữ vừa bỏ học để đi lấy chồng. Đó là Sùng Ý Bi (14 tuổi). Gia đình khi ở bản, lúc lại ở bên Lào nên Bi học mãi mới lên được lớp 4. Đầu năm ngoái, gia đình được Nhà nước hỗ trợ làm nhà nên ở hẳn lại Nậm Tột. Thầy Tài chưa kịp mừng thì thấy Bi đưa giấy mời đi ăn đám cưới.
Chồng của Bi là thằng Thò Dua Giống chỉ mới học lớp 5. Bố chồng là Thò Bá Cử, Hội trưởng hội phụ huynh nên thầy Tài buộc phải đến uống rượu dù lòng đắng ngắt.