Kết hôn đồng tính: Xói mòn truyền thống?
“Tôi đang sống rất hạnh phúc với người bạn đời cùng là nữ. Đáng tiếc, hạnh phúc bình thường của chúng tôi là bất thường với xã hội” - Chia sẻ của bạn Nguyễn Hải Yến tại hội thảo về người đồng tính, song giới và chuyển giới được tổ chức ngày 10/5, tại Hà Nội.
Lời khẩn cầu của người mẹ
Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE), ở Việt Nam, số người đồng tính và song tính trong độ tuổi từ 15 đến 59 vào khoảng 1,65 triệu người. Đa phần họ đang phải chịu kỳ thị, định kiến, kể cả bạo lực, và chịu những thiệt thòi về cơ hội học tập, công việc, hôn nhân và chăm sóc sức khỏe.
Cô gái gốc Hà Nội là Nguyễn Hải Yến đang sống cùng người bạn đời tên Hương và đứa con 5 tuổi của Hương ở một căn chung cư tại TP Hồ Chí Minh. Yến chia sẻ: "Tôi hỏi con: "Hai mẹ lấy nhau có được không?" - “Có, con yêu hai mẹ lắm. Hai mẹ lấy nhau, con sẽ làm phù dâu”, đứa trẻ nói".
Yến kể về cuộc sống thường nhật: Sáng chúng tôi đưa con đến trường rồi đi làm, chiều đón về, đi chợ, nấu ăn... Hiện tại cuộc sống của chúng tôi không khác gì những gia đình bình thường khác, rất hạnh phúc. Đáng tiếc là sự bình thường của chúng tôi lại là sự bất thường với xã hội.
Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy (quận 9, TP.HCM) có con là người đồng tính nói: "Có trường hợp người phụ nữ sinh con mà gần 20 năm sau mới biết con mình đồng tính. Có những người chồng đã tìm đứa con khác ngoài giá thú, ly dị vợ... hạnh phúc người phụ nữ quá mong manh".
“Do vậy, tôi khẩn cầu Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ dù sinh con trai hay con gái, đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính, chuyển giới, khuyết tật. Có như vậy, người phụ nữ chúng tôi mới yên tâm mang thai không phải lo lắng cho đứa con chào đời thuộc về giới tính nào. Phụ nữ chúng tôi mới có đủ tâm trí, nghị lực nuôi dạy con cái tốt hơn và cống hiến toàn tâm toàn ý cho xã hội”, bà Thủy nói.
Hải Yến cho rằng cuộc sống gia đình của cô bình thường như bao gia đình khác
Ông Lê Quang Bình, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) cho rằng, việc thừa nhận hôn nhân cùng giới thể hiện mạnh mẽ quan điểm bảo vệ quyền bình đẳng của tất cả mọi người Việt Nam.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết (nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội) cho rằng rào cản lớn nhất hiện nay đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới là định kiến xã hội. Ông Thuyết hy vọng tương lai không xa định kiến này sẽ được xóa bỏ.
Xói mòn giá trị truyền thống?
TS. Nguyễn Thu Nam, Viện chiến lược và chính sách y tế, Bộ Y Tế cho rằng, một trong những lo ngại khác về tác động của hôn nhân đồng giới là sẽ gây xói mòn giá trị của hôn nhân vốn đã tồn tại từ lâu trong xã hội.
Tuy nhiên, các con số thống kê giữa các nước thừa nhận và không thừa nhận liên quan đến nội dung khảo sát này không khác biệt.
Số liệu của Văn phòng tham khảo Dân số Mỹ trong khoảng thời gian 1990-2004, cho thấy không có bất cứ mối liên hệ nào giữa việc cho phép người đồng tính kết hôn hoặc sống chung với các tác động tiêu cực tới hôn nhân.
Trái lại, ở những bang đã cho phép người đồng tính chung sống với nhau lại có mối liên quan có ý nghĩa hơn với sự gia tăng tỷ lệ kết hôn, giảm nạo phá thai và giảm số trẻ em sống trong các gia đình phụ nữ đơn thân.
Hải Yến và Hương mong muốn được công nhận "vợ-chồng"
“Hôn nhân đồng giới có tính bình đẳng tương đối cao vì hai người ít có sự phân công lao động hay trách nhiệm theo giới. Mặc dù chưa có nghiên cứu chứng minh tác động này, nhưng có thể coi đây là một yếu tố giúp thúc đẩy sự bình đẳng giới trong hôn nhân truyền thống”, bà Nam nói.
Cũng theo bà Nam, quan ngại về sự diệt vong của xã hội nếu công nhận hôn nhân đồng giới càng không có cơ sở. Vì tình trạng này chỉ xảy ra khi toàn bộ dân số trong xã hội là người đồng tính và họ lựa kết hôn nhưng không sinh đẻ.
Bà Nam còn chỉ ra lo ngại của xã hội về các em nhỏ sống trong gia đình đồng tính có thể bị lệch lạc. Theo bà Nam, trước khi thừa nhận hôn nhân đồng giới, rất nhiều nước đã tiến hành các nghiên cứu so sánh kết quả phát triển của trẻ em trong các gia đình hôn nhân truyền thống và các kiểu hình gia đình khác. Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (2006) đã kết luận không có bằng chứng nào chỉ ra bất kỳ nguy cơ cho sự phát triển của trẻ khi trẻ được nuôi dưỡng trong các gia đình đồng tính.
Một số nghiên cứu còn chỉ ra những đứa con do đồng tính nữ sinh ra và được nuôi dưỡng trong gia đình đồng tính nữ thậm chí có một số khả năng vượt trội hơn trẻ em trong các gia đình hôn nhân truyền thống. Trong khi nghiên cứu về khả năng nuôi dạy con của các cặp đồng tính nam cho thấy sự vượt trội hơn các ông bố dị tính khi họ có cả các khả năng chăm sóc trẻ giống như người mẹ.