Điện Biên Phủ: Chiếc võng dù của tướng Nguyễn Thanh Bình
Cho đến giờ, chưa ai thống kê được, có bao nhiêu chiếc võng đã được bộ đội Việt Nam chế tạo từ những chiếc dù cướp được của quân Pháp trong những ngày chiến dịch Điên Biên Phủ. Và quanh đó, cũng có bấy nhiêu chuyện thú vị trong cuộc đối đầu về hậu cần của lực lượng Việt Minh và quân Pháp ở Điên Biên Phủ...
Chiếc võng dù, làm bằng dây dù chiến lợi phẩm, do Đại đoàn 312 tặng đã được Cục trưởng Cục quân nhu Nguyễn Thanh Bình đem theo như một kỷ vậy trong gần suốt 60 năm... Chủ nhân của chiếc võng dù, Thiếu tướng Nguyễn Thanh Bình đã từ trần ngày 19 tháng 3 năm 2008. Trước đó mấy năm, chính tay tướng Nguyễn Thanh Bình đã trao kỷ vật chiếc võng dù cho Bảo tàng quân đội trước khi qua đời. Trong buổi trao tặng kỷ vậy thiêng liêng đó, ông đã chia sẻ với chúng tôi câu chuyện cảm động về những ngày tháng thiêng liêng trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tôi nhớ, đôi tay ông run run, trao chiếc chiếc võng dù, nước mắt nhòa trên khuôn mặt vị tướng già...
Kỷ vật - chiếc giường ngủ di động
Chiếc võng đan bằng lõi dây dù, đầu võng quấn bằng dây dù màu cỏ úa, hai đầu võng đan bằng dây dù màu đỏ, thân võng đan bằng dây dù màu trắng. Từ ngày có chiếc võng, trong hành trang của mình, ông Bình có một chiếc giường ngủ di động tuyệt vời, rất cần và phù hợp với điều kiện của người lính nơi chiến trường. Cả đến sau này khi chuyển ngành, giữ những chức vụ cao của Đảng, Nhà nước, ông vẫn giữ thói quen ngủ võng. Vì thế, mỗi lần đi công tác ông luôn mang võng đi theo. Nó không chỉ tiện lợi mà còn bởi nó gắn với ông những kỷ niệm sâu sắc thời kháng chiến.
...Cuối năm 1949, trong ngành Quân nhu xảy ra vụ tham ô lớn, Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng tư lệnh đã điều một số cán bộ bổ sung cho ngành Quân nhu. Ông Bình khi đó là Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng được lựa chọn giữ cương vị Cục trưởng Cục Quân nhu.
Sau khi Bộ chỉ huy chiến dịch được thành lập, Tổng cục Cung cấp quyết định tổ chức Tổng cục Cung cấp tiền phương do Phó chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Đặng Kim Giang phụ trách, ông Bình được cử làm phó, phụ trách tuyến hậu cần hỏa tuyến. Sở chỉ huy của tuyến này đặt ở gần Nà Tấu, sát đường vận chuyển để tiện chỉ huy. Trên tuyến này, lực lượng vận tải chủ yếu là dân công và xe đạp thồ. Nhiệm vụ là vận chuyển vật chất cho các đại đoàn bộ binh, trung đoàn pháo binh và các kho trung chuyển.
Sau khi chuyển phương châm từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “Đánh chắc tiến chắc”, đến đầu tháng 2 năm 1954, lực lượng ta ở Điện Biên Phủ tăng lên rất nhanh, riêng quân số chiến đấu đã là 43.000 người. Đồng nghĩa với việc nhu cầu vật chất tăng gấp nhiều lần so với kế hoạch ban đầu.
Ảnh từ trái sang: Cục trưởng Cục Quản lý xe Vũ Văn Đôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Nguyễn Thanh Bình, Quyền chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đặng Kim Giang trong triển lãm ngành hậu cần năm 1959
Ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tấn công cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Toàn tuyến hậu cần bước vào trận chiến đấu mới ngày càng cam go, ác liệt hơn. Khó khăn lớn nhất của hậu cần chiến dịch là tuyến vận tải rất dài lại phải qua địa hình rừng núi hiểm trở, nhiều sông suối, đường hẹp và xấu. Nắm được khó khăn này của ta, địch tập trung lực lượng không quân đánh phá ác liệt các tuyến đường ra mặt trận. Thêm vào đó những cơn mưa đầu mùa làm cho những con đường trở nên lầy lội, gây khó khăn cho các phương tiện vận chuyển. Với tinh thần “Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng” cả nước chung sức một lòng, vượt qua mưa bom, bão đạn của kẻ thù, kết hợp hậu cần quân đội với hậu cần địa phương ngành hậu cần quân đội đã cố gắng đến mức cao nhất, nhưng so với nhu cầu của bộ đội vẫn chưa đáp ứng đủ. Không ngờ, tại Điện Biên Phủ đã xuất hiện một tình huống hiếm có trong lịch sử quân sự, tạo điều kiện để quân ta có thể có thêm đạn dược, thuốc men, nhu yếu phẩm từ chính nguồn tiếp tế của địch.
“Bắt” giặc tiếp tế cho ta
Đặt tay lên chiếc võng dù, ông Nguyễn Thanh Bình trở lại câu chuyện: Tất nhiên, việc tiếp tế của ta cực kỳ khó khăn, nhưng địch cũng gặp những trở ngại cực lớn. Để chống lại các cứ điểm phòng ngự kiên cố của quân Pháp, bộ đội ta áp dụng chiến thuật "vây lấn" rất có hiệu quả bằng việc đào các giao thông hào dần dần bao vây và siết chặt, tiếp cận dần vào các vị trí của Pháp. Suốt ngày đêm, từng giờ, những chiến hào nổi, chiến hào ngầm của bộ đội nhích dần đến gần phân khu trung tâm.
Đến cuối tháng 4, vòng vây của ta đã siết chặt. Quân Pháp bị vây hãm trong chiến hào giống như chiếc cổ họng dần bị thắt chặt. Hàng chục nghìn quân địch trông chờ vào phương tiện tiếp tế duy nhất là đường hàng không cách xa trên 300 km. Sân bay Mường Thanh liên tục bị pháo kích. Quân Pháp chỉ còn cách bay trên cao và thả dù ban đêm. Đêm đêm, những chiếc máy bay là xuống thấp để thả dù người và tiếp tế. Các đơn vị cao pháo của ta đã áp sát khu trung tâm, bất thần cùng các cỡ súng bộ binh nổ đồng loạt. Chiếc máy bay nào không dính đạn bốc cháy thì cũng bị hất lên cao, vội vã thả dù để nhẹ cánh quay về căn cứ ở đồng bằng.
Không còn cách nào khác, các phi công Pháp và Mỹ buộc phải thả dù ở độ cao trên 3.000 mét. Từ độ cao này, dù không còn rơi vào những vị trí như dự tính mà có tới một nửa rơi vào trận địa ta. Cuốn “Nhật ký chiến sự” của Giăng Pu-giê ghi nhận: “Có tới 50% kiện hàng rơi ngoài bãi thả. Ngày 1/4, hơn một nửa số hàng thả rơi ngoài vị trí. Ngày 6/4, hơn mười khẩu pháo không giật 75mm thả xuống Điện Biên, lính Pháp chỉ thu được hai khẩu, số còn lại coi như làm quà cho Việt Minh. Ngày 9/4, trong tổng số 195 tấn hàng tiếp tế đã thả chỉ thu được... 6 tấn. Ngày 13/4, máy bay C-119 Mỹ “trút toàn bộ số đạn pháo 105mm xuống trận địa Việt Minh, coi như tiếp tế đạn cho đối phương!”. Ngày 18/4, hơn 30 tấn hàng “rơi lạc” sang trận địa Việt Minh. Ngày 27/4, có tới 70% số dù hàng rơi lạc mục tiêu. Ngày 5/5, hầu hết số hàng do C-119 thả xuống đều rơi xuống trận địa Việt Minh”.
Thấy dù hàng của địch rơi trắng cả cánh đồng, quân ta tổ chức đoạt dù tiếp tế của địch để bổ sung một phần tiếp tế cho ta đồng thời để bóp chết dạ dày của địch. Cuộc chiến đoạt dù cũng rất cam go, quyết liệt. Đó là nguồn sống của địch nên chúng cũng tìm mọi cách để lấy về. Nhưng dần dà, ưu thế trong trận chiến “đoạt dù” cũng chuyển sang phía ta. Có đơn vị chỉ trong một tuần đã thu được 776 chiếc dù với các loại hàng tiếp tế do địch ném xuống: đạn pháo và đạn súng cối, gạo, bánh mì, đường, đồ hộp, dầu hỏa, huyết thanh khô… Có đơn vị đoạt được cả lon tướng và rượu cô-nhắc của vợ Đờ Cát ở Hà Nội gửi lên cho chồng nhân dịp hắn được thăng cấp.
Dù của địch ru quân ta ngủ
Sau khi thu được dù của địch, nếu là đạn và thuốc men và một số nhu yếu phẩm quan trọng thì phải nộp toàn bộ ngay cho cấp trên. Còn các thứ thực phẩm thì được có châm chước. Tức là giữ lại một phần cho bộ đội dùng. Cũng có khi xảy ra chuyện oái oăm. Dù thả ban đêm, chiến sĩ ta nhặt được, hì hục lôi về, nhưng khi mở ra lại là xác của một lính dù địch đã bị trúng đạn khi vừa nhảy ra từ máy bay.
Sau khi lấy được hàng hóa, vải dù được chiến sĩ ta sử dụng theo rất nhiều cách. Tiện nhất là cắt ra làm khăn quàng ngụy trang, làm vải rèm, làm lót hầm, thậm chí thay giấy làm báo tường. Dây dù cũng có nhiều công dụng không kém. Những lúc im tiếng súng, dây dù được bộ đội cắt ra rút lõi, đan thành võng. Những sợi dây dù của các kiện hàng, dưới bàn tay tài hoa của chiến sỹ Điện Biên trở thành những chiếc võng xinh xắn. Dưới chiến hào, bộ đội mắc võng nom rất thanh bình không ai nghĩ những ngày đó bộ đội trải qua những gian khổ ác liệt.
Cho đến giờ, chưa ai thống kê được, có bao nhiêu chiếc võng đã được bộ đội Việt Nam chế tạo trong những ngày chiến dịch Điện Biên Phủ. Dù của Mỹ, được chế tạo bằng sợi hóa học, rất bền và rất đẹp vì không phai màu, là thứ cực kỳ hiếm khi ấy. Vì thế các chiến sĩ phân công nhau, mỗi người một việc, tranh thủ đan. Võng dù đã trở thành món quà quý dành để tặng cho những vị khách quý và những người thân yêu nhất.
Một trong những người được các chiến sĩ tặng món quà quý ấy chính là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp tiền phương Nguyễn Thanh Bình. Nhiều người sau này không giữ được kỷ vật ấy, nhưng ông thì vẫn cứ mang theo.
70 năm hoạt động cách mạng, ông đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, đã được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
Tướng Nguyễn Thanh Bình tên khai sinh: Nguyễn Văn Huyên, bí danh: Giáo, Bình, sinh ngày 4 tháng 5 năm 1920; quê quán: xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1949 đến năm 1950, Cục trưởng Cục Quân nhu; Năm 1951, ông kiêm chức Bí thư Đảng bộ Tổng cục Cung cấp; năm 1954 Cục trưởng Cục Chính trị Tổng cục Hậu cần, năm 1955 Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; Năm 1959, Phó Bí thư Đảng ủy Tổng cục Hậu cần, phong quân hàm Thiếu tướng. Năm 1960 Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng và giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội thương, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi; nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra của Chính phủ; nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội; đại biểu Quốc hội các khóa III, IV, V, VI, VII và VIII (Theo Wikipedia) |