Nadal gặp Federer, mười năm vĩ đại
Những ngày này mười năm trước, tại Miami, chàng trai trẻ Nadal lần đầu gặp Federer, và họ làm nên cặp đấu vĩ đại nhất lịch sử tennis.
Trận đấu mở ra lịch sử
Ngày ấy, Federer 22 tuổi còn Nadal 17. Federer xếp hạt giống số 1 với tư cách của đương kim số 1 thế giới, còn Nadal, hạng 36 thế giới, là hạt giống cuối cùng trong nhóm 32 tay vợt. Nếu như Federer lúc đó đã giành được ba chức vô địch lớn, trong đó có hai Grand Slam ở Wimbledon và Australian Open thì Nadal mới lọt vào tới bốn trận chung kết và vô địch ba giải nhỏ đều trên đất nện. Thành tích ấy rất đáng kể với một tay vợt trẻ, nhưng ở thời điểm đó, nó lọt thỏm trước sự ngưỡng mộ dành cho những tay vợt vô địch Grand Slam trong những năm 2001-2002 khi họ mới chỉ đôi mươi như Hewitt, Roddick… Và sân cứng ở Miami chứ không phải đất nện ở Nam Âu hay Nam Mỹ.
Nadal tiến vào trận đấu ở vòng ba, gặp Federer cũng không có gì quá đặc biệt. Nhà vô địch Wimbledon 2001 Goran Ivanisevic bị chấn thương phải bỏ cuộc ngay trong set 1, để Nadal đi tiếp mà chưa đổ quá nhiều mồ hôi.
Các nhà báo chuyên về tennis lúc ấy coi nó chỉ như một trận đấu bình thường, chắc mẩm Federer sẽ thắng dù biết rằng trước đó, anh đã bị ốm trong trận thắng Davydenko ở vòng hai.
Các khán giả lại càng không đoán định trước được rằng trận đấu ấy lại mở ra cuộc đối đầu vĩ đại của hai huyền thoại kéo dài suốt mười năm sau (và sẽ còn tiếp diễn).
Trận đấu tại Miami năm 2004 mở ra những trận đối đầu vĩ đại giữa Nadal và Federer
Nhưng Nadal, với mái tóc dài xoã xuống vai, chiếc áo sát nách và cái quần rộng thùng thình, đã chơi một trận đấu hoàn hảo, với hơn 80% cú giao bóng một vào sân, lên lưới 14 lần và ăn 13 điểm trong số đó. Ở tuổi 17, cơ thể còn nhẹ, gân rất dẻo dai, đôi chân của Nadal nhanh tới mức có cảm giác anh dùng xe máy để di chuyển trong khi đối thủ đi xe đạp.
Nadal ngày ấy chưa hình thành thói quen như bước chân phải trước, chưa để cho mọi đối thủ đi trước mỗi khi đổi sân, thậm chí tự nhiên bắt tay trọng tài trước kể cả khi thắng trận nhưng đã biết rằng cần phải nhồi trái với Federer bên cạnh tâm lý không có gì để mất trước số 1 thế giới.
Nadal thoải mái điều bóng khắp mặt sân, né trái đánh phải rồi giật trái hai tay dọc dây để dứt điểm, và thậm chí thường xuyên bỏ nhỏ - cách xử lý hiếm thấy ở anh sau này.
Sau trận thua 3-6, 3-6 này, hơn ai hết, Federer bắt đầu nhìn thấy đối thủ của anh trong tương lai, và Nadal chính là người đáng kể nhất trong số các đối thủ buộc anh phải hoàn thiện mình, từ việc mài giũa cú trái tay hơn nữa cho tới việc thích ứng nhiều hơn trước lối đánh cuối sân bền bỉ.
Clip cuộc chạm trán đầu tiên giữa Nadal và Federer tại vòng 3 giải Miami năm 2004, Nadal thắng 6-3, 6-3
Cuộc đụng độ thứ hai và lời tuyên bố của Federer
Đúng một năm sau, Federer và Nadal lại gặp nhau ở Miami Masters đầy duyên nợ. Lần này ở chung kết. Nadal lại chiến thắng trong hai set đầu với set một khá dễ dàng và set hai căng thẳng hơn.
Federer vô địch giải Miami năm 2005 sau khi đánh bại Nadal trong trận chung kết
Masters ngày ấy có các trận chung kết chơi theo thể thức năm set thắng ba, là tiền đề để Federer bắt đầu làm nên cuộc lội ngược dòng ngoạn mục. Federer thậm chí bị bẻ game ngay đầu set ba, và liên tục đối diện với các nguy cơ bị bẻ game khác, nhưng đã buộc Nadal phải bước vào loạt tiebreak. Thậm chí, ở loạt tiebreak, Nadal cũng giành minibreak trước và dẫn 5-3, nhưng Federer vẫn thắng sau đó. Công việc còn lại với anh trước một Nadal còn chưa dày dặn kinh nghiệm trong hai set cuối dễ dàng hơn khi anh chỉ thua cả thảy bốn game.
Đó giống như một lời tuyên bố của Federer, rằng anh không dễ dàng bị khuất phục bởi cái gọi là sự kỵ giơ với lối đánh của Nadal.
Clip cuộc chạm trán thứ hai giữa Nadal và Federer tại chung kết giải Miami năm 2005, Federer thắng 2-6, 6-7(4-7), 7-6(7-5), 6-3, 6-1
Federer sau đấy đã chứng tỏ thêm nhiều lần nữa cùng với việc được tôn vinh là người có cú trái một tay xuất sắc nhất mọi thời đại để trở thành tay vợt hoàn hảo, dù cho trong 31 cuộc đối đầu sau đó với Nadal, Federer thua là chủ yếu (22).
Trận đấu đầu tiên giữa Federer và Nadal trong khuôn khổ Grand Slam và là cuộc gặp gỡ thứ ba trên mọi mặt trận diễn ra ngay sau chung kết Miami Masters hai tháng. Nadal thắng set 1, Federer thắng set 2 nhưng lại thua trong hai set sau tại bán kết Roland Garros 2005 (xem video).
Vậy là trận thắng đầu tiên khi họ gặp nhau trên sân cứng cũng như trên đất nện đều thuộc về Nadal. Nó được tay vợt người Tây Ban Nha khẳng định như một chân lý, bởi Nadal thắng 13 thua 2 trên đất nện, thắng 9 thua 6 trên sân cứng, còn ở sân cỏ Federer thắng 2 thua 1.
Trong 33 lần gặp nhau ấy, có những trận một chiều, như Federer hay đánh bại Nadal nhẹ nhàng ở ATP World Tour Finals, còn Nadal thắng như lấy đồ trong túi trên sân đất nện (chung kết Roland Garros), nhưng đa phần được tôn vinh như những trận đấu hay nhất trong lịch sử.
Federer rớt lệ khi thua Nadal trong trận chung kết Australian Open 2009
Chung kết Masters Rome 2006 kéo dài năm set với chiến thắng 6-7(0), 7-6(5), 6-4, 2-6, 7-6(5) nghẹt thở cho Nadal được coi là trận chung kết hay nhất của hệ thống Masters 1000.
Chung kết Wimbledon 2007 với thắng lợi của Federer đầy kịch tính được ca tụng cho tới khi cả hai lại gặp nhau trong trận chung kết của giải đấu này năm 2008. Nadal đánh bại Federer 6-4, 6-4, 6-7(5), 6-7(8), 9-7 để lần đầu tiên vô địch Grand Slam trên sân cỏ được coi là trận đấu hay nhất mọi thời đại.
Rồi chỉ nửa năm sau, cả hai gặp nhau tại chung kết Australian Open 2009 để cùng tạo nên trận chung kết hấp dẫn nhất của giải đấu này.
Giá trị của những trận đấu để đời
Những trận đấu đi vào lịch sử ấy đã nâng môn thể thao này lên những tầng cấp mới. Chung kết Wimbledon 2008 ghi nhận hàng loạt kỷ lục về người xem qua truyền hình ở Anh sau hàng thập kỷ giảm sút (hơn 13 triệu người), và cả ở Mỹ (tỉ lệ rating là 4,6, cao nhất trong gần chục năm dù không có tay vợt Mỹ nào tham gia).
Giai đoạn nói trên cũng là thời kỳ Federer và Nadal thay nhau đứng số 1 và 2 thế giới lâu nhất (khoảng 5 năm), tạo ra thách thức lớn buộc các tay vợt khác phải vươn lên mà Djokovic là tiêu biểu.
Federer và Nadal xứng danh là cặp đấu vĩ đại nhất lịch sử tennis
Giờ đây, khi Federer ở tuổi 32, không còn nằm trong tốp bốn tay vợt hàng đầu nữa thì Nadal, 27 tuổi cũng gặp chấn thương nhiều hơn. Họ không thường gặp nhau ở các trận cuối cùng của giải đấu, (từ 2005-2012 chỉ gặp ở bán kết hoặc chung kết), hoặc bỏ lỡ cơ hội gặp nhau dù cho đôi khi các kết quả bốc thăm vẫn xếp họ vào cùng nhánh (US Open 2013, họ có thể gặp ở tứ kết, nhưng Federer bị loại ở vòng 4). Và một điểm nữa, sự kỵ giơ nghiêng về Nadal càng trở nên rõ rệt hơn đồng nghĩa với các trận đấu trở nên dễ đoán hơn là điều khó chối bỏ.
Dẫu vậy, Nadal gặp Federer vẫn tạo ra những cảm xúc đặc biệt. Ở Cincinnatti 2013, Federer gặp Nadal ở tứ kết (7-5, 3-6, 4-6) là trận đấu hay nhất của giải. Ở Australian Open 2014, dù tỉ số là 3-0 cho Nadal nhưng set 1 của trận đấu vẫn là màn trình diễn đẳng cấp của cả Federer.
Giờ đây, ở Miami lịch sử, Federer và Nadal không cùng nằm trong một nhánh như mười năm trước. Họ sẽ chỉ gặp nhau nếu cả hai cùng thắng tất cả để có mặt ở chung kết. Trong chúng ta có bao người đang ước muốn có một trận tái đấu vĩ đại như thế?
33 cuộc đối đầu giữa Nadal và Federer tới thời điểm hiện tại, Nadal thắng 23 trận, Federer thắng 10 trận
TT | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Vòng | Tay vợt thắng | Tỷ số | Thời gian |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1. | 2004 | Miami | Cứng | 3 | Nadal | 6–3, 6–3 | 1h10' |
2. | 2005 | Miami | Cứng | Chung kết | Federer | 2–6, 6–7(4–7), 7–6(7–5), 6–3, 6–1 | 3h43' |
3. | 2005 | Roland Garros | Đất nện | Bán kết | Nadal | 6–3, 4–6, 6–4, 6–3 | 2h47' |
4. | 2006 | Dubai | Cứng | Chung kết | Nadal | 2–6, 6–4, 6–4 | 1h53' |
5. | 2006 | Monte Carlo | Đất nện | Chung kết | Nadal | 6–2, 6–7(2–7), 6–3, 7–6(7–5) | 3h50' |
6. | 2006 | Rome | Đất nện | Chung kết | Nadal | 6–7(0–7), 7–6(7–5), 6–4, 2–6, 7–6(7–5) | 5h05' |
7. | 2006 | Roland Garros | Đất nện | Chung kết | Nadal | 1–6, 6–1, 6–4, 7–6(7–4) | 3h02' |
8. | 2006 | Wimbledon | Cỏ | Chung kết | Federer | 6–0, 7–6(7–5), 6–7(2–7), 6–3 | 2h58' |
9. | 2006 | Tennis Masters Cup | Cứng | Bán kết | Federer | 6–4, 7–5 | 1h53' |
10. | 2007 | Monte Carlo | Đất nện | Chung kết | Nadal | 6–4, 6–4 | 1h35' |
11. | 2007 | Hamburg | Đất nện | Chung kết | Federer | 2–6, 6–2, 6–0 | 1h55' |
12. | 2007 | Roland Garros | Đất nện | Chung kết | Nadal | 6–3, 4–6, 6–3, 6–4 | 3h10' |
13. | 2007 | Wimbledon | Cỏ | Chung kết | Federer | 7–6(9–7), 4–6, 7–6(7–3), 2–6, 6–2 | 3h45' |
14. | 2007 | Tennis Masters Cup | Cứng | Bán kết | Federer | 6–4, 6–1 | 0h59' |
15. | 2008 | Monte Carlo | Đất nện | Chung kết | Nadal | 7–5, 7–5 | 1h43' |
16. | 2008 | Hamburg | Đất nện | Chung kết | Nadal | 7–5, 6–7(3–7), 6–3 | 2h52' |
17. | 2008 | Roland Garros | Đất nện | Chung kết | Nadal | 6–1, 6–3, 6–0 | 1h48' |
18. | 2008 | Wimbledon | Cỏ | Chung kết | Nadal | 6–4, 6–4, 6–7(5–7), 6–7(8–10), 9–7 | 4h48' |
19. | 2009 | Australian Open | Cứng | Chung kết | Nadal | 7–5, 3–6, 7–6(7–3), 3–6, 6–2 | 4h23' |
20. | 2009 | Madrid | Đất nện | Chung kết | Federer | 6–4, 6–4 | 1h26' |
21. | 2010 | Madrid | Đất nện | Chung kết | Nadal | 6–4, 7–6(7–5) | 2h10' |
22. | 2010 | ATP World Tour Finals | Cứng | Chung kết | Federer | 6–3, 3–6, 6–1 | 1h37' |
23. | 2011 | Miami | Cứng | Bán kết | Nadal | 6–3, 6–2 | 1h18' |
24. | 2011 | Madrid | Đất nện | Bán kết | Nadal | 5–7, 6–1, 6–3 | 2h36' |
25. | 2011 | Roland Garros | Đất nện | Chung kết | Nadal | 7–5, 7–6(7–3), 5–7, 6–1 | 3h40' |
26. | 2011 | ATP World Tour Finals | Cứng | Vòng bảng | Federer | 6–3, 6–0 | 1h00' |
27. | 2012 | Australian Open | Cứng | Bán kết | Nadal | 6–7(5–7), 6–2, 7–6(7–5), 6–4 | 3h42' |
28. | 2012 | Indian Wells | Cứng | Bán kết | Federer | 6–3, 6–4 | 1h31' |
29. | 2013 | Indian Wells | Cứng | Tứ kết | Nadal | 6–4, 6–2 | 1h24' |
30. | 2013 | Rome | Clay | Chung kết | Nadal | 6–1, 6–3 | 1h08' |
31. | 2013 | Cincinnati | Cứng | Tứ kết | Nadal | 5–7, 6–4, 6–3 | 2h14' |
32. | 2013 | ATP World Tour Finals | Cứng | Bán kết | Nadal | 7–5, 6–3 | 1h19' |
33. | 2014 | Australian Open | Cứng | Bán kết | Nadal | 7–6(7–4), 6–3, 6–3 | 2h24' |
Chú thích:
Từ năm 2004-2008 | Từ năm 2009-nay | Nadal | Nadal |
---|---|---|---|
Grand Slam | Grand Slam | 9 | 2 |
Tennis Masters Cup | ATP World Tour Finals | 1 | 4 |
ATP Masters Series | ATP World Tour Masters 1000 | 12 | 4 |
ATP International Series Gold | ATP World Tour 500 Series | 1 | 0 |
Tổng cộng | 23 | 10 |