Ngân hàng phải đợi “khỏe” mới cứu DN
Sức khỏe của doanh nghiệp là điều kiện để Ngân hàng xét cho vay vốn. Còn Ngân hàng phải chờ “ khỏe” mới cứu được doanh nghiệp. Có ý kiến cho rằng : Mỗi ngân hàng chỉ cần chia sẻ 10 – 20% lợi nhuận năm nay thì sẽ cứu được hàng nghìn doanh nghiệp. Tuy nhiên, các NH có chịu mở “hầu bao” hay không lại là một câu hỏi lớn.
Doanh nghiệp trông chờ giảm tiếp lãi suất
Từ giữa năm 2011 lại nay, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ rất lớn, khiến cho người dân, doanh nghiệp và các Ngân hàng (NH) chuyển tài sản từ ngoại tệ sang nội tệ để hưởng lãi suất cao.
Tuy nhiên, chênh lệch đó hiện đang bị thu hẹp. Theo tính toán của ông Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tiền tệ Quốc gia: Giả định lãi suất huy động ngoại tệ trung bình 4%/năm trừ đi lạm phát của Mỹ 2%/năm + lạm phát của Việt Nam 5%/năm và rủi ro hối đoái 2%/năm, trong khi lãi suất huy động VND bình quân 11%/năm, thì chênh lệch thực tế giữa lãi suất VND và ngoại tệ là 2%/năm.
Cũng theo ông Nghĩa, đây là dư địa duy nhất còn lại để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giảm lãi suất. Tuy nhiên dư địa này cũng rất mong manh vì chỉ số lạm phát của Việt Nam có 40% trọng số là lương thực thực phẩm thường tăng lên theo mùa vụ, đặc biệt là cuối năm. Điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN. Vì vậy, NHNN trên thực tế chỉ còn dư địa 1% để điều chỉnh lãi suất từ nay đến cuối năm..
Nếu lãi suất xuống thấp hơn, người dân, doanh nghiệp và NH sẽ dịch chuyển tài sản ngược lại từ nội tệ sang ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ biến động mạnh và có thể gây những bất ổn kinh tế vĩ mô nghiêm trọng.
Ngoài ra, nợ xấu cũng là một yếu tố khiến cho các ngân hàng thương mại (NHTM) không thể giảm lãi suất cho vay xuống mặc dù lãi suất tiền gửi đã giảm mạnh vì họ phải trích lập dự phòng rủi ro và tăng chi phí xử lý nợ xấu.
Ông Lê Xuân Nghĩa: nợ xấu cũng là một yếu tố khiến cho các ngân hàng thương mại (NHTM) không thể giảm lãi suất cho vay xuống.
Lãi suất giảm: phụ thuộc khả năng hấp thụ
Theo ông Nguyễn Đại Lai – chuyên gia tài chính: Về vấn đề giảm lãi suất hiện nay không chỉ là sự quan tâm của doanh nghiệp và xã hội, mà còn là sự quan tâm của chính hệ thống các NH. Lãi suất thấp hay cao suy cho cùng là phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của người vay.
Tuy nhiên khả năng này lại tùy thuộc vào: lạm phát, lãi suất huy động, chi phí hoạt động của NH. Trên thực tế đà tăng lạm phát đang giảm, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế đang yếu đó chính là những nhân tố khách quan buộc lãi suất phải giảm.
Mức lãi suất cho vay phù hợp trong thời gian tới được giới hạn bởi lãi suất huy động bình quân (có thể xuống tới 9% thậm chí 8%/ năm) và chi phí họat động hợp lý của các tổ chức tín dụng (khỏang 2% đến 2,5%).
Do đó, mức lãi suất cho vay hợp lý trong thời gian tới có thể xuống tới mức từ 10,5% đến 11,5%/ năm nếu năng lực quản trị rủi ro của các tổ chức tín dụng tốt hơn.
Khi niềm tin vào NH thui chột
Trong thời gian qua, NH luôn điều chỉnh những đợt giảm lãi suất nhằm cứu các doanh nghiệp thoát khỏi bờ vực phá sản. Tuy nhiên, theo thống kê 7 tháng đầu năm, Việt Nam có hơn 3.000 doanh nghiệp giải thể. Điều này đặt ra một câu hỏi lớn: NH đã thực sự quan tâm tới sự sống còn của doanh nghiệp hay không?
NH hạ lãi suất cho vay nhưng trên thực tế, những doanh nghiệp tiếp cận những nguồn vốn đó phải là những doanh nghiệp “sống khỏe”. Còn những doanh nghiệp đang trong tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc” thì NH ngập ngừng không muốn cho vay hay trả lời rằng: không đủ điều kiện vay.
Có ý kiến cho rằng: Mỗi ngân hàng chỉ cần chia sẻ 10 – 20% lợi nhuận năm nay thì sẽ cứu được hàng nghìn doanh nghiệp. Tuy nhiên, các NH có chịu mở “hầu bao” hay không lại là một câu hỏi lớn.
Đồng ý với ý kiến nếu trên, ông Nguyễn Văn Thắng, Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) cho rằng: Với các doanh nghiệp yếu và khó khăn rất cần có sự hỗ trợ từ các bộ, ngành, trong đó có ngành NH. Thực tế chỉ tính việc giảm lãi suất, VietinBank đã hỗ trợ doanh nghiệp một khoản ước tính 1.500 - 1800 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận mỗi một NHTM cũng là một doanh nghiệp. Do vậy, họ vẫn phải đảm bảo các mục tiêu kinh doanh đã đặt ra, qua đó, đảm bảo được quyền lợi cho các cổ đông và người lao động. Vì vậy, không thể đòi hỏi các NH phải chia sẻ bao nhiêu % lợi nhuận. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sức khỏe của từng NH, ông Thắng cho hay.
Theo ông Thắng, bên cạnh sự giúp đỡ từ NH, các doanh nghiệp cũng cần tìm kiếm các nguồn hỗ trợ khác, đồng thời cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính, nhằm hạn chế thấp nhất tổn thất có thể xảy ra.
Chỉ biết trông chờ vào chính sách
NH phải dựa vào “sức khỏe” của mình mới có thể góp sức cùng doanh nghiệp, còn doanh nghiệp trông mong vào sự hỗ trợ từ phía NH lại gặp phải những rào cản khó khăn. Sự mất lòng tin hoàn toàn giữa NH, doanh nghiệp và giữa các nhà đầu tư vào nền kinh tế đã đẩy NH rơi vào tình trạng mà thế giới gọi là đóng băng tín dụng.
Vì vậy, vấn đề cốt lõi nhất trước mắt là xử lý nợ xấu, phá băng tín dụng. Trong điều kiện hiện nay, cần phải có bàn tay Chính phủ vì nợ xấu đã quá lớn và tăng rất nhanh cùng với tốc độ phá sản ngày càng mạnh của doanh nghiệp.
Theo ông Lê Xuân Nghĩa: nếu Chính phủ không sớm đưa vấn đề này ra để giải quyết thì nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng suy giảm nghiêm trọng kéo dài nhiều năm khi mà nền tảng của nó là phần lớn các doanh nghiệp đã suy kiệt tới mức không thể cứu vãn được.