Ngân hàng 0 đồng, sao không sáp nhập hay phá sản?

Trong vòng 4 tháng, Ngân hàng Nhà nước đã liên tiếp mua 3 ngân hàng thương mại với giá 0 đồng mà không phải là duy trì, hợp nhất, sáp nhập, giải thể hay phá sản, vì sao?

Góc nhìn của Luật sư Trương Thanh Đức, chuyên gia ngân hàng (NH), Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế (Hiệp hội NH) xung quanh vấn đề này.

Theo công bố của NH Nhà nước, cả 3 NH gồm: NH TMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB), NH TMCP Đại Dương (Ocean Bank) và NH TMCP Dầu khí Toàn cầu (GP Bank), đều là những NH rất yếu kém, nợ xấu rất cao, nguy cơ mất vốn rất lớn, âm hàng nghìn tỉ đồng và giá trị mỗi cổ phần là bằng 0 đồng. Kết quả này đưa ra dựa trên cơ sở kết quả thanh tra và kiểm toán.

Ngân hàng 0 đồng, sao không sáp nhập hay phá sản? - 1

CB (trước đó là VNCB) là ngân hàng cổ phần đầu tiên bị NHNN mua lại giá 0 đồng, hiện đang tái khởi động sau một thời gian tái cơ cấu

Về mặt pháp lý, 3 NH thương mại trên đều rơi vào ít nhất một trong các trường hợp phải áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt theo quy định tại khoản 3, Điều 146 về “Áp dụng kiểm soát đặc biệt”, Luật Các tổ chức tín dụng. Sau khi áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt, NH Nhà nước đã quyết định mua lại 3 NH thương mại cổ phần trên với giá 0 đồng và chuyển đổi thành NH thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên, do nhà nước làm chủ sở hữu. Quyết định này dựa trên cơ sở pháp lý như Luật NH Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp…

Cả 3 NH vẫn được giữ lại để tiếp tục hoạt động kinh doanh nhưng hàng nghìn cổ đông, sở hữu số cổ phiếu mệnh giá hơn chục nghìn tỉ đồng ở các NH coi như mất trắng và không chịu bất kỳ nghĩa vụ nào với tư cách cổ đông NH. Người vay tiền của 3 NH vẫn phải có nghĩa vụ trả đầy đủ nợ vay. Còn người gửi tiền tại các NH này vẫn được bảo đảm chi trả toàn bộ số tiền gửi, gồm cả gốc và lãi.

NH Nhà nước có thể lựa chọn giải pháp chấn chỉnh, tái cơ cấu và duy trì NH thương mại cổ phần nhưng với điều kiện các NH này muốn tiếp tục hoạt động “phải duy trì giá trị thực của vốn điều lệ” với mức tối thiểu bằng mức vốn pháp định 3.000 tỉ đồng theo quy định. Giải pháp này là bất khả thi, vì cả 3 NH đều không đáp ứng được yêu cầu về mức vốn điều lệ thực có tối thiểu trong một thời gian dài. Các cổ đông cũng đã không lựa chọn giải pháp tăng vốn, hay nói đúng hơn, đã không đạt được tỷ lệ biểu quyết tối thiểu 65% để tăng vốn điều lệ.

Các phương án khác như hợp nhất, sáp nhập vào NH khác cũng không được bởi không có NH nào tự nguyện đứng ra hợp nhất và NH Nhà nước cũng không thể lựa chọn phương án chỉ định bắt buộc một NH đảm nhiệm việc này vì thiếu cơ sở pháp lý. Việc giải thể, phá sản các NH này cũng tương tự, khi muốn giải thể phải thanh toán hết nợ hoặc phá sản phải chi trả đủ cho người gửi tiền…

Vậy NH Nhà nước có nên mua 100% cổ phiếu với giá 0 đồng? Giá trị tài sản của 3 NH được xác định theo cách đánh giá, tính toán trên sổ sách, giấy tờ dựa theo các quy định về hạch toán và phân loại nợ. Do giá trị tài sản của 3 NH thương mại được xác định là giá trị âm, nên mỗi cổ phần, cổ phiếu chỉ được định giá là 0 đồng.

Nếu mang bán đấu giá số cổ phần này, có thể bán được hàng nghìn tỉ đồng nhưng cũng có thể không ai mua. Nhưng vì không có quy định pháp luật về việc bán đấu giá trong trường hợp này, nên tình huống “phát mại” cổ phiếu đã không xảy ra. Sự an nguy của hệ thống NH cũng không thể chờ đợi để có thể thực hiện được việc này. Hơn nữa, NH Nhà nước không cần mua lại 100%, mà chỉ cần mua lại 65% tổng số cổ phiếu là đã có toàn quyền để tự quyết định mọi vấn đề của các NH thương mại.

Theo tôi, các quyết định của NH Nhà nước đều dựa trên căn cứ pháp luật, nhằm giải quyết tình thế và cần thiết, có ý nghĩa sống còn tránh nguy cơ đổ vỡ hệ thống NH cũng như bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô… Có điều, nếu giải quyết kịp thời hơn, khi 3 NH trên chưa lâm vào tình trạng âm vốn quá lớn thì hậu quả đã không quá nặng nề.

Quá trình xử lý 3 NH nói trên là một việc làm hết sức đặc biệt, ảnh hưởng khá mạnh đến tâm lý của nhà đầu tư nói chung, của các cổ đông ngân hàng nói riêng nên cần công bố thông tin một cách cụ thể, đầy đủ, kịp thời, minh bạch và giải thích rõ ràng… Do đó, cần xem xét sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 theo hướng quy định rõ ràng, cụ thể về điều kiện, biện pháp và thủ tục xử lý.

Chia sẻ
Gửi góp ý
Lưu bài Bỏ lưu bài
Theo T.Phương ([Tên nguồn])
Báo lỗi nội dung
GÓP Ý GIAO DIỆN