Lịch sử điều trị gãy xương, từ nẹp gỗ đến cố định bằng đinh vít
Điều trị gãy xương là một hành trình dài với vô vàn đổi mới cũng như tiến bộ y học được áp dụng.
Kỹ thuật nẹp đã có từ sớm
Những ví dụ sớm nhất về việc điều trị gãy xương ở người đã được phát hiện tại Naga-ed-Der (khoảng 100 dặm về phía bắc Luxor ở Ai Cập) bởi Giáo sư G. Elliott Smith trong chuyến thám hiểm Ai Cập Hearst của Đại học California vào năm 1903. Hai mẫu vật được tìm thấy là các chi bị nẹp. Một là xương đùi vị thành niên bị gãy, gãy xương giữa và được nẹp bằng bốn tấm gỗ dọc, mỗi tấm được quấn bằng băng vải lanh. Một miếng băng có chứa huyết sắc tố cũng được tìm thấy ở gần vị trí gãy xương. Nạn nhân được cho là đã chết ngay sau khi bị thương, vì xương không có bất kỳ phản ứng chữa lành nào.
Mẫu thứ hai là gãy xương hở của cẳng tay, được xử lý bằng nẹp tương tự và cũng không hề có phản ứng chữa lành. Với các mẫu vật được phát hiện về sau, phần lớn các trường hợp gãy xương đùi bị gãy đều biến dạng, nhưng một số trường hợp gãy xương cẳng tay được chữa lành đã được phát hiện.
Một số hình thức nẹp gỗ băng bó vào chi bị thương đã được sử dụng từ thời cổ đại cho đến ngày nay. Chắc chắn, cả hai vị thầy thuốc Hippocrates và Celsus đều mô tả chi tiết về sự nứt gãy bằng cách sử dụng các thiết bị bằng gỗ, nhưng một tài liệu thú vị về sự nứt gãy bên ngoài được tìm thấy trong cuốn sách của bác sĩ El Zahrawi. Trong chuyên luận thứ 30 của mình, "phẫu thuật", ông đã mô tả chi tiết việc băng bó cho người bị gãy xương.
Vào năm 1517, vị bác sĩ có tên Gersdorf đã minh họa một cách tuyệt vời một phương pháp mới để buộc các thanh nẹp gỗ. Ông sử dụng các mối ghép xung quanh thanh nẹp đã lắp ráp, siết chặt vào chân bị thương bằng cách vặn chúng bằng các nút vặn bằng gỗ. Dần dần, công nghệ này được tiếp thu và phát triển qua từng thời kì, giúp các bác sĩ có thể tìm ra phương thức nẹp gãy xương hiệu quả nhất.
Bó bột bằng thạch cao
Cho đến năm 1814, phương pháp bó bột bằng thạch cao chỉ áp dụng cho các trường hợp bị gãy chân, xương cẳng tay, bàn tay, xương đòn. Bột thạch cao sẽ được trộn với một loại giấy tương tự như giấy thấm sau đó bọc phần chi bị gãy trong một cái máng lớn bằng bìa cứng sau đó đổ hỗn hợp vào và bọc kín lại.
Nẹp Thomas
Không có một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình nào trên thế giới không quen thuộc với nẹp Thomas, hiện vẫn đang được sử dụng ở nhiều trung tâm trên toàn thế giới trong việc điều trị gãy xương đùi. Việc sử dụng phương pháp này trong Thế chiến I đã cứu sống nhiều người. Giúp những người gặp chấn thương vẫn có thể di chuyển khi cần thiết và vết thương được cố định một cách tối đa, khiến quá trình hồi phục diễn ra nhanh hơn.
Gãy xương hở
Cho đến khoảng 150 năm trước, gãy xương hở gần như đồng nghĩa với cái chết và thường cần phải cắt cụt ngay lập tức. Bản thân việc cắt cụt chi mang theo tỷ lệ tử vong rất cao, thường là tử vong do xuất huyết hoặc nhiễm trùng huyết. Cho đến thế kỷ 16, phương pháp truyền thống để cố gắng kiểm soát xuất huyết sau khi cắt cụt chi là khâu vết thương bằng bàn là nóng hoặc áp dụng phương pháp đun sôi. Điều này có thể đã gây ra hoại tử mô, nhiễm trùng và xuất huyết thứ phát.
Năm 1564, bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng người Pháp Ambroise Paré (từng phục vụ cho các vị vua như Henry II, Francis II, Charles IX và Henry III, cha để của phẫu thuật quân sự) là người đầu tiên mô tả việc thắt các mạch máu để hạn chế xuất huyết trong quá trình cắt cụt chi.
Cố định dây
Người ta tin rằng, kỹ thuật cố định bên trong phần xương gãy sớm nhất là kỹ thuật nối hoặc khâu dây. Vào ngày 31 tháng 7 năm 1827, bác sĩ Kearny Rodgers ở New York được ghi nhận là đã thực hiện khâu xương. Ông cắt bỏ một phần xương và nhận thấy các đầu xương là không ổn định nhất, vậy nên ông đã khoan một lỗ trên mỗi đầu và luồn một sợi dây bạc qua để giữ lại các mảnh xương. Các đầu của sợi dây được rút ra qua một ống thông vẫn còn trong vết thương. Vào ngày thứ 16, xương đã bắt đầu có dấu hiệu lành lại và hoàn toàn lành lặn vào ngày thứ 69. Tuy nhiên, bệnh nhân chỉ đạt được sự hồi phục nhanh chóng như trên với điều kiện phải nằm yên trên giường, hạn chế tối đa mọi cử động trong vòng 2 tháng.
Cố định vít
Việc sử dụng vít trong xương có lẽ bắt đầu vào khoảng cuối những năm 1840. Chắc chắn vào năm 1850, các bác sĩ phẫu thuật người Pháp Cucuel và Rigaud đã mô tả hai trường hợp, trong đó đinh vít được sử dụng trong điều trị gãy xương. Trong trường hợp đầu tiên, một người đàn ông 64 tuổi bị gãy lõm phần trên của xương ức, sau đó một đinh vít được đưa vào để cho phép tác dụng lực kéo để nâng mảnh xương ức bị lõm vào một vị trí thích hợp. Trong trường hợp thứ hai, bác sĩ Rigaud đã lắp một vít vào xương trụ và vào mấu khuỷu bị dịch chuyển, làm giảm các mảnh vỡ và nối hai vít lại với nhau để cánh tay hoàn toàn không bị gãy và có được sự kết hợp thỏa đáng của vết gãy. Rigaud cũng mô tả một quy trình tương tự đối với xương bánh chè.
Có thể thấy, việc điều trị gãy xương đã phát triển qua nhiều thời kì với nhiều phương pháp thử nghiệm được đưa ra. Ngày nay, việc điều trị gãy xương không còn quá khó khăn như trước do những tiến bộ đáng kể về khoa học kỹ thuật. Những phương pháp mới vẫn được tiếp tục nghiên cứu để giúp bệnh nhân được chữa trị nhanh nhất và có khả năng hồi phục cao.
Nguồn: [Link nguồn]
Qua nhiều thế kỷ, những khám phá từ nhiều nền văn hóa đã nâng cao việc cung cấp các loại bình xịt trị liệu.