Báo động trẻ em Việt Nam rơi vào "nạn đói tiềm ẩn"

Sự kiện: Sống khỏe

Theo các chuyên gia dinh dưỡng, trẻ em Việt Nam vẫn rơi vào tình trạng thiếu vi chất, các bác sĩ lo ngại đây là “nạn đói tiềm ẩn” ảnh hưởng tới cả thế hệ người Việt tương lai.

Báo động trẻ em Việt Nam rơi vào "nạn đói tiềm ẩn" - 1

Thiếu vi chất đang là nạn đói tiềm ẩn mà trẻ em Việt Nam đang phải gánh chịu

Mặc dù tình trạng trẻ thừa cân béo phì đang tăng cao song vấn đề dinh dưỡng của trẻ em Việt vẫn còn nhiều điều đáng bàn, đặc biệt là tình trạng thiếu vi chất.

Thiếu vi chất dinh dưỡng rất khó phát hiện và được coi là “nạn đói tiềm ẩn” ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, trong đó trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ tuổi sinh đẻ là những đối tượng có nguy cơ cao.

Thiếu vi chất gây ra những ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ, thể lực, trí tuệ, khả năng sinh sản và lao động của người lớn, cản trở sự tăng trưởng và phát triển toàn diện của trẻ em.

Thiếu vi chất dinh dưỡng là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới chậm phát triển chiều cao (suy dinh dưỡng thấp còi làm chiều cao người trưởng thành không đạt theo trần ngưỡng di truyền) ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. 

1. Thiếu vitamin A

Tại Việt Nam, từ năm 1995, Tổ chức Y tế thế giới công nhận đã thanh toán được tình trạng thiếu vitamin A thể lâm sàng, nhưng tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em dưới 5 tuổi vẫn ở mức cao.

Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em dưới 5 tuổi là 13,0%, có sự chênh lệch giữa các vùng; thậm chí một số địa phương miền núi, tỷ lệ này lên tới 16,1%.

2. Thiếu máu

Cũng theo kết quả điều tra toàn quốc năm 2015 cho thấy 32,8% phụ nữ có thai, 25,5% phụ nữ tuổi sinh đẻ, 27,8% trẻ em dưới 5 tuổi bị thiếu máu.

Tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở trẻ em dưới 24 tháng tuổi (42,7- 45%) và phụ nữ tuổi sinh đẻ khu vực miền núi (27,9%).

Tỷ lệ thiếu máu ở khu vực nông thôn cao hơn thành phố, tương ứng là 26,3 và 20,8%. Tỷ lệ thiếu máu có xu hướng giảm, nhưng giảm ở mức chậm và hiện vẫn ở mức trung bình (>20%).

Thiếu máu do thiếu sắt chiếm tỷ lệ 63,6% (trẻ em); 54,3% (phụ nữ) và 37,7% (phụ nữ tuổi sinh đẻ) trong các trường hợp thiếu máu.

3. Thiếu kẽm

Thiếu kẽm ở Việt Nam, qua kết quả của cuộc điều tra năm 2015, như sau: 80,3% phụ nữ có thai, 63,6% phụ nữ tuổi sinh đẻ và 69,4% trẻ em dưới 5 tuổi bị thiếu kẽm ở mức nặng.

4. Thiếu vitamin D và can xi:

Điều tra vi chất năm 2010 trên 19 tỉnh thành của Việt Nam cho thấy tình trạng thiếu vitamin D còn rất phổ biến. Nếu sử dụng ngưỡng là 75 nmol/L thì tỷ lệ thiếu vitamin D tương ứng là 90% ở cả phụ nữ và trẻ em.

Bên cạnh đó mức tiêu thụ vitamin D và canxi của phụ nữ và trẻ em Việt Nam cũng mới chỉ đạt 1% và dưới 43% nhu cầu khuyến nghị.

5. Thiếu Iốt:

Kết quả điều tra của Bệnh viện Nội tiết TW trong thời gian 2010 - 2015 cho thấy tỉ lệ bướu cổ trẻ em 8-10 tuổi là 9,8%. Tỉ lệ hộ gia đình sử dụng muối iốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh khoảng 60%, mức trung vị iốt niệu là 8,4 mcg/dl.

Đây là mức thấp nhất trong 10 năm qua, trong khi đó theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới về thanh toán tình trạng thiếu iốt mà chúng ta đã đạt được năm 2005 thì tỷ lệ bướu cổ trẻ em 8 -10 tuổi <5% và mức trung vị iốt niệu ≥ 10 mcg/dl, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng muối iốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh > 90%.

Thiếu vi chất dinh dưỡng gây ra những ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ, dẫn đến chậm phát triển chiều cao, thể lực trí tuệ, khả năng sinh sản và lao động của người lớn, cản trở sự tăng trưởng và phát triển toàn diện của trẻ em.

Ngày vi chất dinh dưỡng (1-2/6) năm nay, để thực hiện bổ sung vitamin A, Viện Dinh dưỡng đã cấp 7.611.000 liều viên nang vitamin A (200.000đv và 100.000đv) cho gần 5.000.000 trẻ từ 6 - 36 tháng tuổi, 500.000 bà mẹ sau đẻ trong vòng 1 tháng được uống bổ sung viên nang vitamin A tại 63 tỉnh/thành.

Riêng 22 tỉnh khó khăn (nơi có tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi cao), đối tượng uống vitamin A liều cao còn được mở rộng đối với trẻ từ 37- 60 tháng tuổi (có 1.100.000 trẻ) và hoạt động tẩy giun sẽ được triển khai cho trẻ từ 24 - 60 tháng tuổi.

Một trong những giải pháp quan trọng trong phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng là tăng cường công tác truyền thông để nâng cao kiến thức và thực hành dinh dưỡng đúng cho toàn dân, khuyến khích sử dụng đa dạng các loại thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày, sử dụng thường xuyên các thực phẩm giàu vi chất, lựa chọn các thực phẩm tăng vi chất; thực hiện cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh, nuôi trẻ hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu.

Quan niệm “xưa và nay” trong dinh dưỡng cho bé

Dinh dưỡng cho bé luôn là đề tài bất cứ người mẹ nào cũng quan tâm. Xoay quanh vấn đề này có rất nhiều quan niệm xưa...

Chia sẻ
Gửi góp ý
Lưu bài Bỏ lưu bài
Theo Khánh Ngọc (Infonet)
Sống khỏe Xem thêm
Báo lỗi nội dung
GÓP Ý GIAO DIỆN