4 trường hợp có quan hệ hôn nhân, huyết thống nhưng không được hưởng thừa kế nhà đất
Bộ luật Dân sự quy định, ai cũng có quyền để lại tài sản của mình cho người khác và có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc pháp luật. Tuy nhiên, một số trường hợp không được hưởng thừa kế nhà đất dù có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản.
4 trường hợp có quan hệ hôn nhân, huyết thống nhưng không được hưởng thừa kế nhà đất. (Ảnh minh họa)
4 trường hợp không được hưởng thừa kế nhà đất
Căn cứ khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015, những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
Trường hợp 1, người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
Theo đó, trong trường hợp người thừa kế đã bị Tòa án kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về một trong các hành vi trên thì sẽ không có quyền hưởng di sản thừa kế. Do đó, những người có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, ngược đãi hành hạ, xâm phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm của người để lại di sản nhưng chưa bị kết án về những hành vi này thì vẫn có quyền hưởng di sản.
Trường hợp 2, người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa người để lại di sản và người thừa kế theo pháp luật khi người để lại di sản còn sống ( Ví dụ: cha, mẹ với con cái, ông bà với cháu,…). Nếu người thừa kế không thực hiện nghĩa vụ này làm cho người để lại di sản lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, ảnh hưởng tới sức khỏe, tinh thần thì người thừa kế không được quyền hưởng di sản.
Trường hợp 3, người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.
Người thừa kế không được quyền hưởng di sản thừa kế khi thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Đã bị Tòa án kết tội bằng một bản án có hiệu lực của pháp luật về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác
+ Mục đích của hành vi xâm phạm này là nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản của người thừa kế khác bị người đó xâm phạm, đây là động cơ của người phạm tội và cần được ghi nhận trong bản án.
Người đã được xóa án tích về hành vi này vẫn không được quyền hưởng di sản. Người không bị kết án vẫn có quyền được hưởng di sản thừa kế.
Trường hợp 4, người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Đây chính là một trong các quyền của cá nhân được pháp luật ghi nhận, bảo vệ. Do đó hành vi lừa dối, cưỡng ép, cản trở việc lập di chúc của người để lại di sản là hành vi trái pháp luật, nên người nào có hành vi cản trở sẽ không được quyền hưởng di sản do người có di sản để lại.
Việc giả mạo, sửa chữa, hủy, che dấu di chúc để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản cũng sẽ không được quyền hưởng di sản thừa kế.
Lưu ý, người thuộc những trường hợp trên đây vẫn được hưởng di sản là quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc cả nhà và đất, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Những người hưởng thừa kế không phụ thuộc di chúc
Tuy vậy, Điều 644 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định có 6 nhóm đối tượng được hưởng thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, gồm:
- Con chưa thành niên của người để lại di sản.
- Cha của người để lại di sản.
- Mẹ của người để lại di sản.
- Vợ của người để lại di sản.
- Chồng của người để lại di sản.
- Con thành niên mà không có khả năng lao động của người để lại di sản.
Theo đó, cho dù những người trên không có tên trong di chúc, nhưng vì mối quan hệ huyết thống, quan hệ vợ chồng gắn bó với người mất mà pháp luật quy định những người này vẫn được hưởng di sản thừa kế.
Cũng tại Điều 644 của Bộ luật Dân sự 2015, những người không có tên trong di chúc vẫn sẽ được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản thừa kế được chia theo pháp luật.
Tương tự, trường hợp người để lại di chúc chỉ cho họ hưởng di sản ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật, thì những đối tượng này vẫn được hưởng bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Tuy nhiên, quy định này sẽ không áp dụng đối với những người thuộc đối tượng nêu trên nhưng từ chối nhận di sản thừa kế hoặc không có quyền nhận di sản thừa kế.
Nguồn: [Link nguồn]
Người dân sử dụng đất có nguồn gốc do ông cha để lại chiếm tỷ lệ lớn. Tuy nhiên đến nay không ít hộ gia đình, cá...