Triển khai thi hành Luật Giáo dục ĐH

Ngày 2/7/2012, Chủ tịch nước ký Lệnh số 06/2012/L-CTN công bố Luật giáo dục đại học đã được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/62012. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013.

Ngày 2/7/2012, Chủ tịch nước ký Lệnh số 06/2012/L-CTN công bố Luật giáo dục đại học đã được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/62012. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động giáo dục, đổi mới quản lý giáo dục đại học, tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn.

Luật giáo dục đại học bao gồm 12 chương, 73 điều. Luật đã quy định chi tiết, cụ thể các chính sách phát triển giáo dục đại học, tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.

Báo Giáo dục và Thời đại trao đổi với ông Bùi Anh Tuấn – Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH – Bộ GD&ĐT xung quanh việc triển khai thi hành Luật giáo dục đại học.

PV. Một trong những vấn đề mới được quy định tại Luật là phân tầng đại học. Ông có thể cho biết vài nét về Nghị định về phân tầng và xếp hạng ĐH Bộ GD&ĐT đang triển khai xây dựng để trình Chính phủ?

Ông Bùi Anh Tuấn: Luật giáo dục đại học được ban hành nhằm mục tiêu thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng về giáo dục, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động giáo dục đại học để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chuẩn bị nhân lực cho nền kinh tế tri thức trong giai đoạn tiếp theo.

Để đạt được mục tiêu trên, Luật giáo dục đại học quy định bốn vấn đề mới cơ bản gồm: phân tầng đại học, xã hội hóa giáo dục đại học, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học và vấn đề kiểm soát chất lượng đào tạo. 

Khi thực hiện Luật giáo dục đại học, hệ thống các cơ sở giáo dục đại học của nước ta sẽ được phân tầng thành các cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu, các cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng và cơ sở giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp. Mỗi một loại hình trường có mục tiêu đào tạo khác nhau. Khoản 1 Điều 9 Luật đã quy định: “Cơ sở giáo dục đại học được phân tầng nhằm phục vụ công tác quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển, nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học; thực hiện quản lý nhà nước”.

Triển khai thi hành Luật Giáo dục ĐH - 1

Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH Bùi Anh Tuấn. Ảnh: gdtd.vn

Để từng bước thực hiện phân tầng đại học, Luật đã quy định: “Tăng ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục đại học; đầu tư có trọng điểm để hình thành một số cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao, theo định hướng nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, các ngành công nghệ cao và ngành kinh tế - xã hội then chốt đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới” (Khoản 2 Điều 12).

Việc phân tầng và xếp hạng cơ sở giáo dục đại học là vấn đề mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai xây dựng Nghị định về phân tầng và xếp hạng để trình Chính phủ.

Nghị định sẽ quy định rõ các tiêu chí phân tầng theo định hướng nghiên cứu, định hướng ứng dụng và định hướng nghề nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ dự thảo quy định về tiêu chuẩn phân tầng cơ sở giáo dục đại học, khung xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học theo mỗi tầng và tiêu chuẩn của từng hạng trong khung phục vụ công tác quản lý nhà nước và ưu tiên đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học.

Trên cơ sở các quy định về xếp hạng, sẽ có nhiều tổ chức được phép tham gia xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học. Theo Luật quy định kết quả xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học sẽ được Thủ tướng Chính phủ công nhận xếp hạng đối với đại học, trường đại học; Bộ trưởng Bộ GD&ĐT công nhận xếp hạng đối với trường cao đẳng.

PV.Vấn đề xã hội hóa giáo dục đại học, trong đó có quy định về cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có yếu tố nước ngoài hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận sẽ được cụ thể hóa như thế nào trong văn bản dưới luật?

Ông Bùi Anh Tuấn: Xã hội hóa giáo dục là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Chủ trương này đã được quy định trong Luật giáo dục và nay tiếp tục được cụ thể hóa trong Luật giáo dục đại học. Theo đó “Thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học; ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo cán bộ để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận; ưu tiên cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học tư thục có vốn đầu tư lớn, bảo đảm các điều kiện thành lập theo quy định của pháp luật; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đại học vì mục đích vụ lợi”. (Khoản 3 Điều 12).

Để tránh tình trạng một cơ sở giáo dục đại học nào đó muốn lợi dụng danh nghĩa phi lợi nhuận để mưu cầu lợi nhuận, tại khoản 3 Điều 66 về quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại học đã quy định:

“Phần tài chính chênh lệch giữa thu và chi từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học tư thục được sử dụng như sau:

a) Dành ít nhất 25% để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học, cho các hoạt động giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ cho hoạt động học tập và sinh hoạt của người học hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội. Phần này được miễn thuế;


b) Phần còn lại, nếu phân phối cho các nhà đầu tư và người lao động của cơ sở giáo dục đại học thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.”

Mặt khác để đảm bảo sự phát triển bền vững của nhà trường, Luật qui định giá trị tài sản tích lũy được trong quá trình hoạt động của cơ sở giáo dục đại học tư thục và giá trị của các tài sản được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng cho cơ sở giáo dục đại học tư thục là tài sản chung không chia, được quản lý theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển; Tài sản và đất đai Nhà nước giao cho cơ sở giáo dục đại học tư thục quản lý và tài sản cơ sở giáo dục đại học tư thục được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng phải được sử dụng đúng mục đích, không chuyển đổi mục đích sử dụng và không được chuyển thành sở hữu tư nhân dưới bất cứ hình thức nào;

Nhà nước và xã hội dựa vào việc sử dụng phần tài chính chênh lệch giữa thu chi và tài chính trong hoạt động của nhà trường để có chính sách phù hợp. Với quy định đó, một mặt, Nhà nước không cấm các cơ sở giáo dục đại học hoạt động vì lợi nhuận hợp lý, và mặt khác, có chính sách phù hợp, khuyến khích đối với cơ sở giáo dục đại học hoạt động không vì lợi nhuận.

Để cụ thể hóa các quy định này của Luật, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang soạn thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật. Trong đó quy định cụ thể tiêu chí các định cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có yếu tố nước ngoài hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Kèm với đó là quy định cụ thể về chính sách đối của Nhà nước đối với các loại cơ sở giáo dục đại học này và những chế tài của Nhà nước nếu các cơ sở này không thực hiện đúng theo cam kết.

PV.Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học sẽ đi kèm với việc tự chịu trách nhiệm như thế nào, thưa vụ trưởng?

Ông Bùi Anh Tuấn: Tự chủ là một thuộc tính của cơ sở giáo dục đại học. Vấn đề này được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các quy định của Luật giáo dục đại học. Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học được quy định tương ứng với năng lực và điều kiện đảm bảo quyền tự chủ.

Quyền tự chủ đi kèm với tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học. Trách nhiệm lớn nhất của cơ sở giáo dục đối với xã hội là bảo đảm chất lượng đào tạo. Luật qui định cơ sở giáo dục đại học được tự chủ in phôi văn bằng, cấp văn bằng cho người học. Như vậy, đã gắn chất lượng đào tạo với tên tuổi của nhà trường.

Trên thực tế, trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao cho các trường tự chủ trong việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh trên cơ sở các tiêu chí đảm bảo chất lượng; tổ chức tuyển sinh; trong xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo; trong xây dựng và công bố chuẩn đầu ra và thực hiện các biện pháp đảm bảo chất lượng...vv.

Các cơ sở giáo dục đại học phải công bố công khai về chỉ tiêu tuyển sinh, ngành và chuyên ngành đào tạo, chuẩn đầu ra và các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, học phí và các thông tin quan trọng khác liên quan đến tổ chức đào tạo...vv. Việc công khai các thông tin này một mặt thể hiện sự cam kết về chất lượng đào tạo của nhà trường, mặt khác để các lực lượng xã hội tham gia giám sát thực hiện chất lượng đào tạo của nhà trường.

Hội đồng trường là thiết chế không thể thiếu để giao quyền tự chủ cho các trường. Điều 16 Luật giáo dục đại học bổ sung quy định về hội đồng trường đối với cơ sở giáo dục đại học công lập so với quy định tại Điều 52 của Luật giáo dục cho phù hợp hơn với thực tiễn giáo dục đại học Việt Nam.

PV. Khi Luật giáo dục đại học có hiệu lực, vấn đề kiểm soát chất lượng đào tạo sẽ được thực hiện như thế nào?

Ông Bùi Anh Tuấn: Luật Giáo dục Đại học đã đưa vào những điều khoản kiểm soát chất lượng đào tạo trong suốt quá trình sinh viên học tập tại trường. Thay vì qui định chương trình khung như trước đây, Luật giáo dục đại học quy định về chuẩn tối thiểu kiến thức, kỹ năng tại khoản 3 Điều 36 như sau:“ Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học; quy trình xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ…”.

Thực hiện các quy định trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng khối lượng kiến thức tối thiểu đối với các trình độ đào tạo, ngành đào tạo để thay thế cho các chương trình khung trước đây, nhằm tạo quyền chủ động hơn cho các trường trong việc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo. Tuy nhiên, đây là công việc đòi hỏi phải có thời gian. Trong khi chưa ban hành được các chuẩn kiến thức, kỹ năng thì các cơ sở giáo dục đại học có thể tham khảo các chương trình khung đã ban hành để xây dựng chương trình đào tạo.

Để khuyến khích các trường xây dựng và phát triển các chương trình chất lượng cao, cho phép xác định học phí ngày càng sát hơn với chi phí đào tạo, khoản 6 Điều 65 Luật giáo dục đại học quy định: “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chương trình đào tạo chất lượng cao được thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo”.

Song song với việc thiết lập các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, Luật cũng đưa ra khung pháp lý của việc tổ chức, hoạt động công tác kiểm định chất lượng giáo dục. Kiểm định chất lượng là bắt buộc đối với các cơ sở giáo dục đại học để thực hiện quyền tự chủ. Trên cơ sở kết quả kiểm định chất lượng, các cơ sở giáo dục đại học sẽ được xếp hạng theo những tiêu chí được các cấp có thẩm quyền qui định.

PV. Luật giáo dục đại học còn có nội dung nào đáng chú ý ngoài 4 điểm mới cơ bản trên?

Ông Bùi Anh Tuấn: Ngoài 4 điểm mới cơ bản trên, Luật giáo dục đại học còn có các điều, khoản quy định về chức danh giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học (gồm trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư); quy định trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học; qui định cấp có thẩm quyền ban hành chuẩn quốc gia của cơ sở giáo dục đại học; quy định về công tác quản lý nhà nước về giáo dục đại học và công tác thanh tra, kiểm tra...

Việc quy định giảng viên đại học gồm 5 chức danh sẽ tạo cơ hội để xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên. Đây chính là thể hiện chính sách của Nhà nước đối với đội ngũ giảng viên, lần đầu tiên 5 chức danh giảng viên được quy định trong Luật.

Đồng thời, để huy động đội ngũ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và học vị tiến sĩ đến tuổi nghỉ chế độ, Luật giáo dục đại học đã quy định việc kéo dài thời gian giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên này.  

PV. Sau khi Luật giáo dục đại học được Quốc hội thông qua, việc soạn thảo các văn bản quy định chi tiết Luật là nhiệm vụ không kém phần quan trọng để góp phần nhanh chóng đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống. Bộ GD&ĐT đã tiến hành công việc này như thế nào?

Ông Bùi Anh Tuấn: Theo kế hoạch xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật triển khai thi hành Luật GDĐH của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì để quy định chi tiết Luật giáo dục đại học sẽ có 36 văn bản, bao gồm: ban hành mới 12 văn bản; sửa đổi, bổ sung 24 văn bản. Cụ thể như sau: Chính phủ ban hành mới 05 Nghị định, sửa đổi, bổ sung 02 Nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành mới 01 Quyết định; sửa đổi, bổ sung 08 Quyết định; Liên Bộ ban hành 04 Thông tư liên tịch; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành mới 06 Thông tư; sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế 19 Thông tư.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật theo kế hoạch. Hiện nay có nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được gửi xin ý kiến của các bộ/ngành, đưa lên mạng lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân.

PV.Xin cảm ơn ông!

Chia sẻ
Gửi góp ý
Lưu bài Bỏ lưu bài
Theo Hiếu Nguyễn (Giáo dục & thời đại)
Báo lỗi nội dung
X
CNT2T3T4T5T6T7
GÓP Ý GIAO DIỆN