Giáo dục VN: Chênh vênh kiềng hai chân

Cần xem xét nhận thức về mức độ nghiêm trọng của sự xuống cấp và lạc hậu của nền giáo dục đã thực sự khủng khoảng chưa hay cơ bản vẫn là tốt. Nếu đã khủng hoảng thì phải cải cách triệt để.

“Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” đã được đưa vào Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

Tuy nhiên, đổi mới căn bản, toàn diện thế nào không phải là câu hỏi dễ trả lời. Ngày 29/9, tại Hà Hội, đông đảo các GS, trí thức đã tham gia hội thảo Trí thức thủ đô với việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam do Liên hiệp Các Hội khoa học Kỹ thuật Hà Nội tổ chức.

Lạc hướng, lạc điệu!

Theo GS Hoàng Tụy, từ nhiều năm qua, giáo dục của ta không chỉ lạc hậu mà còn đi lạc hướng xa con đường chung của nhân loại, đang phát triển lạc điệu với thế giới văn minh. Ông nhấn mạnh lỗi thiết kế hệ thống của giáo dục - nguyên nhân sâu xa của mọi khó khăn, vấp váp của chúng ta - chính là sự lạc hướng, lạc điệu, không giống ai. GS Chu Hảo cũng nhất trí với quan điểm này và cho rằng giáo dục đang khủng hoảng, cần một cuộc cách mạng thực sự chứ không phải chỉ là “đổi mới căn bản và toàn diện”.

Giáo dục VN: Chênh vênh kiềng hai chân - 1

GS Hoàng Xuân Sính phát biểu tại hội thảo

Theo GS Chu Hảo, vấn đề ở đây chính là nhận thức về mức độ nghiêm trọng của sự xuống cấp và lạc hậu của nền giáo dục đã thực sự khủng khoảng chưa hay cơ bản vẫn là tốt. Theo ông, nếu đã khủng hoảng thì phải cải cách triệt để.

GS Nguyễn Xuân Hãn, ĐH Quốc gia Hà Nội, cho rằng: “Sách, giáo viên, trường lớp là 3 vấn đề được mọi quốc gia, mọi thể chế và mọi thời đại coi trọng. Song ở nước ta, cả ba yếu tố nền tảng kể trên đều có vấn đề nghiêm trọng. Chương trình giáo dục chính thức nhất quán từ phổ thông đến ĐH chưa có, chưa bàn bạc thống nhất phê duyệt ở cấp quốc gia về những nội dung chương trình cần phải giảng dạy ở tất cả các cấp học thì đã vội vàng biên soạn sách giáo khoa.

Hậu quả là bậc phổ thông học sinh bị bội thực về sách, bậc ĐH thì đói sách học chay triền miên. Chương trình giáo dục ở phổ thông quá nặng và xa rời với chuẩn quốc tế (phải bỏ đi khoảng 30%-50% khối lượng kiến thức - có môn như môn toán phải bỏ tới 60% khối lượng và viết lại cho phù hợp với quốc tế và đặc thù của lứa tuổi phổ thông).

Giáo viên ở bậc phổ thông chỗ thừa chỗ thiếu, việc chuẩn hóa thiếu cơ sở khoa học, ở bậc ĐH thiếu khoảng 20.000 giáo viên nhưng việc sử dụng những trí thức có học hàm học vị hiện có lại nhiều bất cập về cách thức sử dụng và đãi ngộ. Người có trình độ bậc cao, trong đó không ít người có trình độ nghiên cứu và giảng dạy thuộc đẳng cấp quốc tế, cứ đến tuổi là cho về hưu, ngược với xu thế chung về sử dụng đội ngũ chuyên gia giỏi trên thế giới.

Lãng phí ghê gớm

Một vấn đề nhức nhối nữa cũng được các trí thức đề cập, đó là mất cân đối trong hệ thống giáo dục quốc dân và cơ cấu nguồn nhân lực. GS Nguyễn Xuân Hãn ví von: Giáo dục phổ thông, ĐH và dạy nghề được ví như 3 chân kiềng cân đối hài hòa tạo thành hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, song năm 1993 ta đã thay đổi, gần như xóa bỏ nhánh dạy nghề, hệ thống giáo dục quốc dân trở thành hình trụ. Học sinh vào học lớp 1 phổ thông và đầu ra là thi ĐH, cái kiềng chỉ còn 2 chân, chênh vênh không bền vững.

Theo thống kê, số trường ĐH, CĐ hiện nay là khoảng 500 trường, dự kiến từ nay đến năm 2020 sẽ có khoảng 576 trường, số lượng sinh viên là 4,5 triệu. So với năm 1987, số trường ĐH, CĐ tăng gấp 5 lần, số sinh viên tăng 13 lần nhưng số giảng viên chỉ tăng 3 lần. PGS Đặng Danh Ánh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu - Đào tạo và Tư vấn khoa học công nghệ, nêu lên bất cập giữa quy mô giáo dục tăng mạnh so với trước nhiều lần nhưng vốn kiến thức cơ bản và văn hóa của học sinh phổ thông rất yếu, khả năng thực hành sáng tạo và độc lập nghiên cứu của sinh viên cực kém, trong khi đó năng lực ứng dụng kiến thức đã học của thạc sĩ, tiến sĩ và thực tiễn lại càng hạn chế.

GS Nguyễn Xuân Hãn bức xúc việc mở rộng ĐH ồ ạt không xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, vượt xa sức chịu đựng của nền kinh tế. Chất lượng đào tạo của ta rất thấp, bằng cấp của ĐH Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận, đào tạo mà không sử dụng được là sự lãng phí ghê gớm. Hiện 63% sinh viên ĐH, CĐ thất nghiệp.

Nghề giáo và người thầy bị hạ thấp

Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình nói bà không vui khi các kết quả điều tra mới nhất cho thấy một tỉ lệ lớn giáo viên phổ thông không đủ sức đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục hiện hành. Sắp tới đây, chất lượng giáo viên mới vào nghề còn thấp hơn vì phần lớn sinh viên đang học các trường sư phạm vốn chỉ là học sinh trung bình, phương pháp đào tạo lại quá lạc hậu.

Theo bà Nguyễn Thị Bình, trở ngại lớn nhất trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên phổ thông chính là họ không còn động lực hoạt động nghề nghiệp vì thu nhập từ lương và phụ cấp Nhà nước trả không đủ bảo đảm cho họ có một cuộc sống tươm tất. Để tự cứu mình, nhiều giáo viên phải dạy thêm dẫn đến dạy thêm tràn lan, sự xuống cấp về đạo đức cũng khiến giáo viên bị lây nhiễm và vì thế, vị thế của nghề giáo, người thầy bị hạ thấp trong thang giá trị xã hội.

PGS Đặng Quốc Bảo, nguyên giám đốc Học viện Quản lý giáo dục, chỉ ra sự thiển cận của những người làm chính sách kinh tế lao động cho giáo viên. Không có thầy giỏi, tâm huyết với nghề sẽ không có “nhân cách - nhân lực” tốt cho đất nước. Bà Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh cần phải tập trung sửa đổi chính sách đối với nhà giáo và cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đồng thời sửa đổi chính sách về tiền lương và phụ cấp, bảo đảm để giáo viên trường công và gia đình họ có mức sống cao hơn mức sống trung bình trong xã hội.

GS Nguyễn Xuân Hãn đưa ra đề nghị Nhà nước tách lương giáo viên thành hệ thống lương riêng trong đợt cải cách lương sắp tới như các nước, không để chung trong thang bậc lương hành chính sự nghiệp, đồng thời tăng lương cho giáo viên tương xứng với “giáo dục là quốc sách hàng đầu”.


Những kiến nghị tâm huyết

Liên hiệp Các Hội khoa học Kỹ thuật Hà Nội đã đưa ra bản kiến nghị với Hội nghị Trung ương lần 6 khóa XI. Theo đó, nội dung quan trọng là kiến nghị Nhà nước xem xét lại và chấn chỉnh hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng gắn kết giáo dục phổ thông, giáo dục nghề - giáo dục ĐH, khắc phục những lệch lạc có tính hệ thống hiện tại.

Cũng trong bản kiến nghị này, các trí thức đồng lòng đề nghị Nhà nước tập trung giải quyết dứt điểm những bất cập về chương trình, sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên và trường sở.

Đồng thời đề nghị kiểm tra một cách nghiêm túc toàn bộ vấn đề đầu tư, chi tiêu ngân sách Nhà nước và đóng góp của dân cho giáo dục. Xây dựng một cơ chế phân bổ minh bạch và quản lý vốn đầu tư từ các nguồn khác nhau cho giáo dục. Đề nghị tách hệ thống lương giáo viên khỏi hệ thống lương hành chính sự nghiệp trong việc cải cách lương sắp tới. Trước mắt, đề nghị cho giáo viên đã nghỉ hưu từ ngày 1-/1-/994 đến 1-5-2011 được hưởng phụ cấp thâm niên để bảo đảm công bằng, đạo lý.

Tiền cho giáo dục đi đâu?

Theo thống kê của GS Nguyễn Xuân Hãn, năm 1990, Việt Nam có 12 triệu học sinh, sinh viên, ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục chỉ 767 tỉ đồng (120 triệu USD theo giá USD lúc đó). Đến năm 2011, số học sinh, sinh viên tăng lên 22 triệu nhưng ngân sách chi cho giáo dục của Nhà nước và dân đóng góp là xấp xỉ 10% GDP (12 tỉ USD); ngoài ra còn các khoản vay của nước ngoài trung bình 100 triệu USD/năm, kể từ năm 1993 đến nay.

Theo GS Hãn, con số này không phải nhỏ, thậm chí như đánh giá của nhóm GS ĐH Harvard trong thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gần đây, tỉ lệ ngân sách dành cho giáo dục trong GDP của Việt Nam là khá cao so với các nước trong khu vực. Vậy tiền đi đâu?
Cũng có chung mối quan tâm này, PGS Đặng Danh Ánh cho rằng đầu tư cho GD-ĐT còn rất nhiều bất cập.

Đầu tư cho giáo dục của ta cao hơn hầu hết các nước trong khu vực nhưng đến nay Việt Nam vẫn chưa có một trường phổ thông, dạy nghề, CĐ hoặc ĐH nào đạt chuẩn khu vực vì đầu tư dàn trải, manh mún, chất lượng và hiệu quả thấp, tiền bị thất thoát do chi tiêu kém minh bạch và lãng phí. Với cách quản trị như vậy, đổ thêm tiền chỉ là giải pháp tình thế không thể giải quyết được vấn đề chất lượng, do đó vấn đề không phải do kinh phí hạn hẹp mà chủ yếu là vấn đề quản trị.

PGS Ánh cũng đặt vấn đề kiểu thu học phí bình quân không tính đến đối tượng cụ thể cũng làm giảm đáng kể số lượng học sinh, sinh viên nghèo.

Chia sẻ
Gửi góp ý
Lưu bài Bỏ lưu bài
Theo Yến Anh (Người Lao Động)
Báo lỗi nội dung
GÓP Ý GIAO DIỆN