Bộ GD&ĐT đề xuất tăng học phí tất cả cấp học
Theo dự kiến, từ năm học 2021-2022, học phí bậc đại học tăng 12,5%. Học phí bậc mầm non, phổ thông tăng 7,5% so với năm học 2020-2021.
Đề xuất học phí bậc mầm non, phổ thông tăng 7,5%
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa thông báo lấy ý kiến góp ý của nhân dân đối với dự thảo Nghị định quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, Nghị định số 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ học phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021 (Nghị định số 86) sẽ hết hiệu lực từ năm học 2021-2022.
Do vậy, việc ban hành Nghị định mới quy định về chính sách học phí, giá dịch vụ giáo dục đào tạo để áp dụng từ năm học 2021-2022 thay thế Nghị định số 86 là rất cần thiết và cấp bách hiện nay.
Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 86, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất các quy định cụ thể về học phí đối với cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập.
Theo đó, mức thu học phí thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ giữa nhà nước và người học, phù hợp với điều kiện kinh tế của từng địa bàn dân cư, khả năng đóng góp thực tế của người dân và tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm, bảo đảm lộ trình đến năm 2030 tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý, chi phí khấu hao.
Dự thảo cũng nêu đề xuất khung học phí của năm học 2021-2022: Căn cứ vào kịch bản tăng trưởng kinh tế của Tổng cục Thống kê thông báo giai đoạn 2021-2025 là 7,5%, cùng với tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng hằng năm khoảng 4-5%/năm và mức thu nhập bình quân đầu người tăng lên qua các năm thì tổng cộng biến động của các chỉ số trên sẽ cao hơn 7,5%.
Bộ dự thảo mức trần học phí cho cơ sở giáo dục đại học công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên hoặc tự bảo đảm chi thường xuyên nhưng chưa đạt kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học trong nước như sau như sau:
Tuy nhiên, để bảo đảm an sinh xã hội và chia sẻ với gia đình người học, Bộ GDĐT đề xuất chỉ tăng 7,5%/năm với học phí mầm non, phổ thông. Với lộ trình này thì đến năm học 2025-2026 bù đắp được 50% chi phí đào tạo, đến năm 2030 học phí sẽ bù đắp đủ chi phí đào tạo (đối với trường chưa tự bảo đảm chi thường xuyên).
Bộ GDĐT cho biết lý do đề xuất là: Căn cứ thực trạng khảo sát về chi phí giáo dục giai đoạn 2016-2019 và mức độ kiểm định chất lượng tại hơn 300 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông trên 20 tỉnh/thành phố và nghiên cứu của chuyên gia cho thấy để hoàn thành lộ trình tính giá dịch vụ vào năm 2025 thì mức học phí của nhóm tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư tăng tối thiểu 2,5 lần khung học phí của các trường chưa tự chủ chi thường xuyên. Ngoài ra, để đảm bảo chất lượng đào tạo, tránh trường hợp thu học phí cao nhưng chất lượng thấp nên Bộ GDĐT đề xuất các cơ sở giáo dục phải thực hiện lộ trình đạt kiểm định tương ứng với lộ trình tăng học phí theo quy định nêu trên.
Tăng học phí, nâng cao chất lượng giáo dục
Theo Bộ GDĐT, việc tăng học phí đối với bậc mầm non - tiểu học, là cấp học đang được nhà nước hỗ trợ học phí, do vậy, sẽ tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng giáo dục ở cấp học này, mà người thụ hưởng trực tiếp là người học. Nói cách khác, các bé đi học mẫu giáo, tiều học sẽ được hưởng một chất lượng giáo dục tốt hơn, vì đã được nhà nước đầu tư tốt hơn, thông qua chi ngân sách nhà nước cấp tỉnh/thành phố.
Đối với các cấp học phổ thông cơ sở và phổ thông trung học, mức tăng học phí trung bình 7,5% tính từ năm học 2021-2022 cũng là mức tăng tương ứng với mức tăng trưởng hàng năm dự kiến giai đoạn 2021-2030 theo Dự báo của Trung tâm thông tin và Dự báo, Tổng cục thống kê. Việc tăng học phí giúp các cơ sở giáo dục có thể có thêm nguồn kinh phí đầu tư thêm vào các hoạt động hỗ trợ người học như định hướng nghề nghiệp, tư vấn hướng nghiệp… cho học sinh ở cấp học này.
Nguồn: [Link nguồn]
“Bộ trưởng nói tính đúng, tính đủ nhưng thực tế khi các trường đi vào thực hiện rất khó” - PGS-TS Đỗ Văn Dũng