Cần thận trọng khi đánh thuế nhà ở thứ hai
Nhiều chuyên gia đều đồng tình rằng, việc đánh thuế sở hữu nhà ở thứ hai thời điểm này là không phù hợp, bất hợp lý.
Đây là ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý tại tọa đàm “Hai kịch bản từ việc đánh thuế sở hữu nhà ở thứ 2” sáng 7- 9 trước thông tin Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu xây dựng Luật Thuế tài sản, trong đó có việc đánh thuế nhà ở thứ 2 trở lên để hạn chế đầu cơ và sử dụng bất động sản lãng phí. Nhiều chuyên gia đều đồng tình rằng, việc đánh thuế sở hữu nhà ở thứ hai thời điểm này là không phù hợp, bất hợp lý.
Nếu đánh thuế đối với việc sở hữu căn nhà thứ hai thì sẽ có tác động rất lớn đến thị trường bất động sản hiện nay. GS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, việc đánh thuế vào nhà ở thứ hai là không hợp lý bởi trong thị trường bất động sản, phần kinh doanh chiếm tỷ trọng rất cao.
Các chuyên gia cho rằng cần thận trọng khi đánh thuế nhà ở thứ hai thời điểm hiện nay.
“Nếu phần kinh doanh không có thì lập tức phân khúc nhà ở cho thuê sẽ bị giảm. Đánh thuế vào nhà ở thứ hai là đánh vào phân khúc nhà cho thuê. Điều này ngược với chủ trương của Nhà nước: Bán nhà chung cư với hình thức thuê, mua. Mà khi cầu về những nhà đầu tư thứ cấp giảm thì cung từ các dự án sẽ giảm, sẽ làm giảm cả cung lẫn cầu”, GS Đặng Hùng Võ nói.
Ông Võ cho rằng, việc đánh thuế nhà thứ 2, trước sẽ là giảm cầu của người có nhà ở cho thuê, sau là giảm cầu của nhà đầu tư thứ cấp cho thuê. Do đó, nếu đánh thuế nhà ở thì nên đánh vào giá trị đất, nếu đánh vào giá trị nhà thì sẽ không còn nhà đẹp nữa bởi chả ai dại gì đầu tư “xịn” để chịu thuế cao hơn.
Trong khi đó, ông Matthew Powell, Giám đốc Savills Hà Nội lại chỉ ra những bất hợp lý khác. Tại Việt Nam, thị trường bất động sản đang phát triển lành mạnh. Giao dịch vẫn ở mức ổn định, chưa phải tăng trưởng quá mạnh. Khi mà áp dụng đánh thuế bất động sản thứ hai, thị trường sẽ làm giảm cầu, giảm sức mua của nhà đầu tư.
“Đánh thuế nhà thứ hai sẽ hạn chế người nước ngoài mua nhà tại Việt Nam. Chính vì vậy, ở góc độ doanh nghiệp, chúng tôi nghĩ không nên đưa thêm những chính sách mang tính thắt chặt, giảm sự hứng thú của nhà đầu tư nước ngoài với bất động sản Việt Nam”, ông Matthew Powell phân tích.
Ông Nguyễn Mạnh Hà, Chủ tịch Hội Môi giới Bất động sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam cho rằng, hiện nay, thị trường bất động sản đang rất ổn định, chỉ mới phục hồi được mấy năm sau một thời gian khủng hoảng dài. Do đó cần cân nhắc kỹ khi đưa ra các chính sách mới, bởi thị trường bất động sản rất nhạy cảm với chính sách.
Ví dụ như năm 2009, chính sách coi bất động sản không phải là ngành sản xuất và giảm các khoản vay vốn, ngay lập tức đã kéo theo nhiều doanh nghiệp bất động sản gặp khó khăn và kéo theo nợ xấu, thậm chí nhiều doanh nghiệp phải phá sản, hệ luỵ là ảnh hưởng tới ngành xây dựng, lao động, vật liệu xây dựng…
“Chúng tôi cho rằng, những sắc thuế và phí gì đưa ra trong thời điểm này đều phải rất thận trọng. Nếu ta đánh thuế cao thì nguồn cung sẽ giảm đi. Ở các nước châu Âu, thị trường nhà ở cho thuê chiếm tới 70%, ở Việt Nam chỉ có 10%. Còn nếu đánh thuế nhà ở thứ hai để tránh đầu cơ lại chưa phù hợp”, ông Hà lập luận.
Trong khi đó ông Nguyễn Văn Phụng, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế Doanh nghiệp lớn (Tổng cục Thuế) cũng cho rằng về lâu dài cần có một đạo luật để thực hiện vấn đề này, bởi đây là tài sản hiện hữu trên địa bàn địa phương, ai cũng có thể nhìn thấy được.
“Tôi cho rằng phải có sự nghiên cứu thấu đáo và đặc biệt cần phải có lộ trình: khi nào đánh thuế, mức bao nhiêu và liệu có quản lý được không?”, ông Phụng đề cập
Ông Lê Việt Hải, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình cho rằng, các nước, nếu đánh thuế bất động sản, họ đánh thuế cả nhà thứ nhất. Ông Hải cho rằng, nếu điều tra, đánh giá từng bất động sản để đánh thuế thì sẽ khó khăn và phức tạp, do đó nếu đánh thuế thì đánh thuế hết.
Một thực tế nếu đánh thuế tất cả bất động sản, những người sở hữu bất động sản có vị trí đẹp, giá trị cao mà lại chưa khai thác ngay, nếu bị đánh thuế thì chủ đất sẽ phải trả mức phí thuế hàng năm theo giá trị của nó, do đó họ sẽ phải bán hoặc đưa vào khai thác, đảm bảo phát triển đô thị hợp lý, phù hợp với nhu cầu thị trường hơn.